Thời sự
Cập nhật lúc 05:19 14/03/2025 (GMT+7)
Thay đổi cần thiết trong hoàn thiện Luật Thuế thu nhập cá nhân

Đó là một phần nội dung tham luận của PGS.TS Phan Hữu Nghị - Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân, trong khuôn khổ buổi Hội thảo "Luật Thuế thu nhập cá nhân - đảm bảo công bằng, thúc đẩy tăng trưởng" do Báo Lao Động phối hợp với Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức ngày 14.3.2025.

Thay đổi cần thiết trong hoàn thiện Luật Thuế thu nhập cá nhân
Hoàn thiện chính sách thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo công bằng. Ảnh: Nam Dương

Thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) của Việt Nam là một trong 9 loại thuế hiện nay đóng góp hơn 198 nghìn tỉ trong tổng thu hơn 1,9 triệu tỉ đồng (ước tính) năm 2024, chiếm khoảng 10% trên tổng thu. Tỉ trọng thu thuế trên tổng nguồn thu ngày một tăng, góp phần điều tiết thu nhập tạo công bằng.

Tuy nhiên trong quá trình áp dụng cùng với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội, thuế TNCN bộc bộ những hạn chế cần chỉnh sửa bổ sung hướng đến mục tiêu: Đảm bảo công bằng theo chiều dọc thực sự, tăng nguồn thu ngân sách và thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế với chiến lược tăng trưởng hai con số từ năm 2026.

Luật Thuế TNCN và những lần sửa đổi quan trọng

Luật Thuế TNCN được Quốc hội thông qua vào năm 2007 áp dụng năm 2009, tuy nhiên, trong quá trình thực thi đã bộc lộ những bất cập và đã được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn đời sống và sự biến động của nền kinh tế. Trong số các lần sửa đổi quan trọng, có thể kể đến:

Năm 2012: Quốc hội ban hành Luật số 26/2012/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN và áp dụng từ 1.7.2013. Đây là lần điều chỉnh quan trọng đầu tiên kể từ khi Luật Thuế TNCN có hiệu lực. Theo Thông tư 111/2013/TT-BTC, mức giảm trừ gia cảnh được điều chỉnh từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng đối với cá nhân và từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng đối với người phụ thuộc. Sự điều chỉnh này được đưa ra nhằm phản ánh đúng hơn mức sống của người dân cũng như tác động của lạm phát trong giai đoạn trước đó.

d
PGS.TS Phan Hữu Nghị - Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân. Ảnh: Vũ Linh

Năm 2020: Quốc hội tiếp tục điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh lên 11 triệu đồng/tháng đối với cá nhân và 4,4 triệu đồng/tháng đối với mỗi người phụ thuộc theo Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14. Việc nâng mức giảm trừ gia cảnh lần này diễn ra trong bối cảnh sau 7 năm áp dụng, trong năm này ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch COVID-19, thu nhập thực tế của người dân bị suy giảm, đồng thời lạm phát tiếp tục có xu hướng tăng.

Như vậy, lộ trình điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân đã trải qua những thay đổi nhằm đảm bảo phù hợp với thực tế đời sống và tình hình kinh tế - xã hội.

Thu ngân sách từ thuế TNCN giai đoạn 2020 - 2024

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tổng số thu từ thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam có xu hướng gia tăng mạnh mẽ trong giai đoạn 2020 - 2024. Theo số liệu thống kê, chỉ trong vòng 4 năm, tổng thu thuế TNCN đã tăng khoảng 80%, gần như gấp đôi. Điều này đặt ra nhiều vấn đề về tính hợp lý của chính sách thuế hiện hành, đặc biệt là mối quan hệ giữa tốc độ tăng số thu thuế và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người.

Tăng trưởng thuế TNCN theo từng năm

Dưới đây là tổng hợp số thu ngân sách từ thuế TNCN theo từng năm giai đoạn 2020 - 2024:

.
(Nguồn: Tổng hợp từ mof.gov.vn- TC thống kê) (BS: năm 2019 số thu 109.406 tỉ đồng).

Dữ liệu trên cho thấy, tổng thu từ thuế TNCN có xu hướng tăng nhanh hơn thu nhập bình quân đầu người (trừ năm 2023), nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Điều này đặt ra câu hỏi về mức độ hài hòa của chính sách thuế hiện hành, liệu mức độ thu thuế tối ưu theo lý thuyết đường cong Laffer ở mức bao nhiêu % so với thu nhập là phù hợp?

So sánh tốc độ tăng thu thuế với tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và lạm phát

Dữ liệu thuế thu nhập cá nhân và thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2020 - 2024 cho thấy mức thu thuế tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người.

Tổng thu từ thuế TNCN giai đoạn 2020 - 2024 tăng 72%, từ 115 nghìn tỉ đồng lên 198 nghìn tỉ đồng.

Thu nhập bình quân đầu người trong cùng kỳ tăng 30,2%, từ 3548 USD/năm lên 4622 USD/năm.

Lạm phát trung bình hàng năm dao động từ 0,81% - 4,16%, với mức cao nhất vào năm 2023 (4,16%) và thấp nhất vào năm 2021 (0,81%).

Khi tính đến yếu tố lạm phát, mức tăng thực tế của thu nhập bình quân đầu người có thể thấp hơn so với con số danh nghĩa. Cụ thể:

Giai đoạn 2020 - 2024, tổng lạm phát cộng dồn khoảng 12,58% nếu so với kỳ gốc 2020 mức tăng khoảng 28%. Điều này có nghĩa là dù thu nhập bình quân đầu người có tăng tới 30,2% nhưng sức mua thực tế có thể không tăng tương ứng.

Nếu loại bỏ tác động của lạm phát, mức tăng thu nhập thực tế sẽ thấp hơn mức tăng danh nghĩa, dẫn đến việc người lao động thực sự có ít tiền hơn để chi tiêu sau khi đóng thuế.

Trong khi đó, tổng thu thuế TNCN vẫn tăng qua các năm, ngay cả trong bối cảnh lạm phát cao. Điều này có thể tạo ra áp lực tài chính đối với người nộp thuế, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình.

Tác động của lạm phát lên chính sách thuế

Lạm phát có thể ảnh hưởng đến hệ thống thuế TNCN theo hai cách chính:

Lạm phát làm suy giảm giá trị thực của thu nhập nhưng mức giảm trừ gia cảnh không được điều chỉnh kịp thời.

Mức giảm trừ gia cảnh hiện nay vẫn giữ nguyên 11 triệu đồng/tháng, dù chi phí sinh hoạt tăng đáng kể qua các năm.

Khi thu nhập tăng nhưng lạm phát tăng tương ứng (như bảng trên) làm cho thu nhập thực không tăng, người lao động có thể bị đẩy vào nhóm thuế suất cao hơn mà không thực sự có nhiều tiền hơn để chi tiêu.

Tăng thuế gián tiếp do lạm phát tăng

Khi giá cả tăng, doanh nghiệp thường tăng lương để giữ chân lao động, dẫn đến thu nhập danh nghĩa cao hơn.

Tuy nhiên, nếu mức giảm trừ gia cảnh không được điều chỉnh, thu nhập danh nghĩa cao hơn sẽ đẩy nhiều người vào mức thuế cao hơn, khiến họ phải nộp thuế nhiều hơn dù thực tế không giàu hơn.

Nhìn chung, trong giai đoạn 2020 - 2024, tốc độ tăng thuế TNCN không chỉ nhanh hơn thu nhập bình quân đầu người mà còn không phản ánh đúng sự thay đổi của thu nhập thực. Điều này đặt ra yêu cầu cần xem xét lại mức giảm trừ gia cảnh cũng như biểu thuế lũy tiến để đảm bảo chính sách thuế công bằng hơn, phù hợp với thực tế kinh tế và mức sống của người lao động.

Các nguồn thu từ thuế TNCN

Hiện nay, thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam được thu theo quy định với 10 nhóm thu nhập khác nhau. Trong đó, nhóm mang lại nguồn thu lớn nhất chủ yếu đến từ tiền lương, tiền công – tức là thu nhập từ lao động. Ngoài ra, một phần không nhỏ đến từ hoạt động kinh doanh của hộ cá thể. Đây là nguồn thu quan trọng nhất, đóng góp phần lớn vào tổng thu ngân sách từ thuế thu nhập cá nhân.

Sau đó, các nhóm thu nhập tiếp theo mang lại nguồn thu đáng kể bao gồm thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứng khoán và chuyển nhượng bất động sản.

Điều này có ý nghĩa quan trọng khi đề cập đến việc điều chỉnh thuế. Nếu muốn điều chỉnh chính sách thuế thu nhập cá nhân theo hướng tăng thu, cần xem xét tác động đến các nhóm thu nhập chính. Tương tự như trong cơ cấu thu NSNN, khi Nhà nước muốn tăng thu cần quan tâm đến cơ cấu các nguồn thu thuế có đóng góp lớn như thuế GTGT, TNDN, TNCN, TTĐB, đối tượng đầu tiên được nhắm đến không phải là các doanh nghiệp nhỏ mà là các doanh nghiệp lớn tại những trung tâm kinh tế trọng điểm như Hà Nội hay TP.HCM. Chính sách thuế thu nhập cá nhân cũng vậy - nếu có điều chỉnh, trước hết phải xem xét tác động đến nhóm thu nhập có tỷ trọng đóng góp cao, thay vì áp dụng chung cho mọi đối tượng mà không cân nhắc mức độ ảnh hưởng.

Khi nói đến việc thay đổi chính sách thuế thu nhập cá nhân, hiện nay vấn đề được cộng đồng đặc biệt quan tâm là mức giảm trừ gia cảnh và cách thức bao quát toàn bộ nguồn thu. Mức giảm trừ gia cảnh đang là một chủ đề nóng và cần được xem xét điều chỉnh sao cho hợp lý, phù hợp với tình hình kinh tế và đời sống của người dân. Ngoài ra, việc làm sao để bao quát toàn bộ các nguồn thu nhập, đặc biệt là từ các nhóm thu nhập có đóng góp lớn cũng là một vấn đề thời sự được thảo luận nhiều hiện nay.

Quản lý thuế với hai nội hàm chính: là quản lý chính sách (văn bản quản lý thuế) và quản lý hành thu. Về nguyên tắc trong việc quản lý thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng: Thứ nhất, thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu, nghĩa là phải đảm bảo sự công bằng (công bằng dọc) trong quá trình thu thuế, tránh việc thuế không công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Thứ hai, trong bối cảnh hiện nay, nguyên tắc quan trọng là minh bạch tài chính. Muốn vậy cần phải quản lý được dòng tiền, đồng thời kiểm soát điểm đến của nguồn thu. Bên cạch đó nguyên tắc áp dụng chính sách phải thống nhất, công tác quản lý cần được tập trung.

Hiện tại, Việt Nam đang áp dụng phương thức thu thuế thu nhập cá nhân bằng cách khấu trừ tại nguồn. Phương thức này có cả ưu điểm và nhược điểm. Tuy nhiên, xét về bản chất, thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu, nghĩa là thuế phải được thu trực tiếp từ người nộp thuế, người đó cũng phải tự giám sát quá trình đóng thuế. Mặc dù vậy, phương thức khấu trừ tại nguồn hiện tại vẫn phù hợp với điều kiện và thực tế của Việt Nam.

Những vấn đề bất cập và gợi ý sửa đổi

Bất cập trong quy định về thu nhập từ tiền lương, tiền công

Bất cập trong cách tính thuế đối với thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau:

Thu nhập từ tiền lương, tiền công hiện nay đóng vai trò chủ đạo trong tổng thu từ thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Tuy nhiên, quy định hiện hành trong cách khai và tính thuế đối với thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau đang gây ra sự bất công bằng giữa các đối tượng nộp thuế.

Theo quy định hiện nay, nếu một cá nhân có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau, thì tổng thu nhập này sẽ được tính gộp để xác định mức thuế phải nộp. Nhưng có một điểm bất cập: Khi thu nhập từ các nguồn bổ sung không vượt quá 120 triệu đồng/năm, thì chỉ cần đơn vị chi trả thực hiện khấu trừ 10% trước khi thanh toán, đồng thời người lao động có thể ủy quyền cho đơn vị chi trả thu nhập chính quyết toán thuế thay mình.

Điều này dẫn đến sự không công bằng trong hệ thống thuế. Nếu một cá nhân có thu nhập chính đã chịu thuế suất 30%, thì đáng lẽ thu nhập từ các nguồn khác cũng nên bị đánh thuế tương ứng. Nhưng với quy định hiện tại, những khoản thu nhập phụ dưới 120 triệu đồng/năm chỉ bị khấu trừ 10%, thấp hơn đáng kể so với mức thuế suất thực tế mà người nộp thuế lẽ ra phải chịu.

Trong khi đó, một người chỉ có một nguồn thu nhập duy nhất nhưng nằm trong khung thuế cao vẫn phải chịu thuế suất đầy đủ. Điều này tạo ra sự thiếu công bằng giữa những người có cùng mức thu nhập nhưng đến từ các nguồn khác nhau.

Bất cập trong quy định về thu nhập từ nhiều nguồn có cùng tính chất và trách nhiệm kê khai thuế

Ngoài ra, một bất cập khác nằm ở quy định về các khoản thu nhập khác như tiền lương tiền công. Theo quy định hiện hành, nếu khoản thu nhập từ một nguồn nhất định không vượt quá 2 triệu đồng/lần, đơn vị chi trả không cần phải khấu trừ thuế 10%. Hiện nay có nhiều đơn vị chi trả kê khai đầy đủ nhưng có đơn vị không kê khai khoản thu nhập này trong hồ sơ quyết toán thuế của đơn vị. Từ đó đẩy cá nhân phải tự kê khai, dù nguồn thu nhập đó chỉ 500 nghìn đến dưới 2 triệu. Nếu cá nhân không tự khai quyết toán thuế sẽ bị phạt chỉ vì khoản thu nhập nhỏ lẻ này. Mặc dù sau nhiều lần nâng cấp hệ thống Etax đã đáp ứng cơ bản nhưng chưa thực sự đảm bảo công bằng và giải quyết được bất cập. Thực tế này đang và đã xảy ra đối với rất nhiều cá nhân dù không muốn trốn thuế nhưng vẫn bị xếp vào nhóm không tuân thủ thuế và bị phạt. Quy định trong văn bản là vậy nhưng thực tế kê khai lại khác, tạo áp lực hành chính thuế không cần thiết đối với người lao động có nhiều nguồn thu nhập.

Thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản

Bất cập trong cách tính thuế hiện hành

Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản hiện nay là một trong những nguồn thu quan trọng trong hệ thống thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Tuy nhiên, phương pháp tính thuế đối với loại thu nhập này vẫn tồn tại nhiều hạn chế, gây ra những bất cập trong thực tế.

Hiện nay, thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản được áp dụng theo hai phương thức:

Thuế 2% trên giá trị giao dịch: Người bán phải nộp thuế bằng 2% tổng giá trị bất động sản ghi trên hợp đồng chuyển nhượng, không quan tâm đến việc có lãi hay lỗ.

Thuế 20% trên chênh lệch giữa giá mua và giá bán: Phương thức này yêu cầu kê khai rõ ràng giá mua và giá bán để tính thuế trên phần lợi nhuận thực tế.

Mặc dù phương án 2% trên giá trị giao dịch đơn giản, dễ thu, nhưng nó lại tạo ra một lỗ hổng lớn trong việc kê khai giá bán. Người bán thường khai giá chuyển nhượng thấp hơn thực tế để giảm số thuế phải nộp. Điều này không chỉ gây thất thu cho ngân sách Nhà nước mà còn khiến thị trường bất động sản thiếu minh bạch.

Ngược lại, phương án thuế 20% trên chênh lệch giá mua và giá bán có lợi thế hơn vì phản ánh chính xác thu nhập thực tế. Tuy nhiên, phương pháp này lại gặp khó khăn trong việc xác định đúng giá mua, nhất là đối với các giao dịch bất động sản diễn ra cách đây nhiều năm, khi chưa có cơ chế quản lý giá mua – bán minh bạch như hiện nay.

Nên đánh thuế dựa trên giá trị tăng thêm và siết chặt quản lý kê khai giá

Để đảm bảo công bằng và hạn chế tình trạng lách thuế, nên áp dụng phương thức đánh thuế 20% trên giá trị chênh lệch giữa giá mua và giá bán giống như thuế thu nhập doanh nghiệp.

Hiện nay, các cơ quan thuế và Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có đầy đủ thông tin về giá mua bán để tính thuế. Do đó, việc kiểm soát giá chuyển nhượng hoàn toàn có thể thực hiện được bằng cách đối chiếu với dữ liệu thực tế. Khi người mua chấp nhận kê khai giá thấp để tránh thuế, đến thời điểm bán lại, họ sẽ gặp khó khăn khi phải ghi nhận giá mua thấp hơn giá thị trường, điều này có thể dẫn đến số thuế phải nộp cao hơn trong giao dịch bán lại sau này, khi người mua không đồng ý với mua bán 2 giá (tức là khai giá thấp).

Mức thuế 20% trên phần chênh lệch giá mua - bán cũng cần đi kèm với chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với hành vi kê khai sai giá. Khi đó, các giao dịch bất động sản sẽ trở nên minh bạch hơn, hạn chế tình trạng "hai giá" (giá thực tế và giá kê khai), đồng thời giúp Nhà nước thu thuế công bằng hơn. Thị trường bị đẩy giá do môi giới, mua bán lòng vòng sẽ bị hạn chế tối đa.

Một trong những tác động quan trọng của việc áp dụng thuế 20% trên lợi nhuận thực tế là giúp hạn chế tình trạng đẩy giá nhà đất. Nếu áp dụng nghiêm ngặt chính sách đánh thuế trên giá trị tăng thêm, các công ty bất động sản cũng sẽ phải tính toán kỹ lưỡng hơn khi quyết định mức giá bán, từ đó giúp thị trường vận hành minh bạch và thực chất hơn.

Thuế thừa kế và quà tặng

Hiện tại, thu nhập từ thừa kế trong gia đình (bao gồm vợ chồng, cha mẹ, con cái) đang được miễn thuế. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, phần lớn các quốc gia đều áp dụng thuế đối với thừa kế nhằm đảm bảo công bằng và tránh thất thu ngân sách. Trong khi đó Việt Nam chưa có Luật Thuế tài sản.

Xu hướng hiện nay của các nước là tách riêng quản lý thuế đối với giới siêu giàu. Nước ta có chi cục thuế quản lý doanh nghiệp lớn vì vậy với thuế TNCN cũng cần nghiên cứu quản lý và dịch chuyển tài sản của giới siêu giàu. Vì nhóm này chiếm số ít nhưng lại chiếm phần lớn tài sản trong xã hội và các tài sản có giá trị lớn.

Để điều chỉnh phù hợp với thông lệ quốc tế, có thể xem xét áp dụng mức thuế suất 15% - 20% đối với tài sản thừa kế lớn, tương tự như thuế suất áp dụng ở một số quốc gia phát triển. Cần có ngưỡng giá trị để miễn thuế hoặc áp dụng thuế suất thấp đối với các tài sản có giá trị nhỏ, không lớn để tránh tác động đến những hộ gia đình không thuộc nhóm thu nhập cao nhưng có tài sản thừa kế cho tặng.

Bên cạnh đó, một số quốc gia áp dụng chính sách ưu đãi thuế đối với người thừa kế đã trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ hoặc người thân trong nhiều năm. Nếu Việt Nam áp dụng chính sách này, người thừa kế có thể được giảm xuống mức thuế suất còn từ 5%-10%, hoặc miễn thuế hoàn toàn trong một số trường hợp đặc biệt như người già yếu, người khuyết tật....

Việc mở rộng cơ sở thuế và đối tượng nộp thuế đối với thu nhập từ thừa kế và quà tặng không chỉ giúp đảm bảo công bằng trong hệ thống thuế, mà còn hạn chế tình trạng lách thuế, tích lũy tài sản bằng mọi cách cho thế hệ sau, đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách và đảm bảo sự minh bạch trong khai báo tài sản.

Bất cập trong quy định khấu trừ thuế và mức thuế suất thu nhập cá nhân

Khấu trừ thuế và tính thống nhất của mức giảm trừ gia cảnh.

Khấu trừ thuế là một vấn đề quan trọng trong hệ thống thuế thu nhập cá nhân (TNCN), vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến số đối tượng nộp thuế và số thuế phải nộp. Hiện nay, khi xem xét thu nhập chịu thuế, cần tính đến chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập, bao gồm cả chi phí sinh hoạt hàng ngày (đi lại, ăn uống, tái sản xuất sức lao động) và chi phí từ quá khứ như chi phí học hành, đào tạo... để có công việc và thu nhập ngày hôm nay. Tuy nhiên, hệ thống thuế hiện hành có thể chưa phản ánh đầy đủ những yếu tố này, dẫn đến việc đánh thuế chưa thực sự công bằng đối với người lao động.

Một trong những tranh luận lớn hiện nay là mức giảm trừ gia cảnh. Hiện tại, mức giảm trừ này đang áp dụng thống nhất trên toàn quốc, bất kể sự khác biệt về chi phí sinh hoạt giữa các tỉnh thành. Điều này dẫn đến bất cập khi chi phí sinh hoạt ở Hà Nội hay TP.HCM cao hơn đáng kể so với các tỉnh khác, nhưng người dân ở đây vẫn chỉ được hưởng mức giảm trừ giống nhau. Tuy nhiên, nếu chia nhỏ mức giảm trừ gia cảnh theo khu vực, có thể gây ra sự phức tạp trong quản lý và thực thi. Trong khi nguyên tắc quản lý thuế là áp dụng chính sách phải thống nhất. Vậy xác định mức khấu trừ bao nhiêu? Căn cứ nào để xác định?

Xác định phổ thu nhập để thấy được mức thu nhập phù hợp áp dụng.

Một vấn đề quan trọng là cần có số liệu về phổ thu nhập của người lao động. Theo ước tính hiện nay nhóm thu nhập từ 18 - 23 triệu đồng/tháng (8400$ – 10.500$/năm) đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lực lượng lao động. Khi xây dựng chính sách thuế, cần xác định mức thu nhập nào được coi là cao để bắt đầu áp thuế. Nếu xác định sai ngưỡng thu nhập cao, có thể dẫn đến việc người lao động thu nhập trung bình, chiếm phần lớn đối tượng lao động cũng phải chịu thuế suất cao, gây áp lực tài chính lớn. Nếu có số liệu thống kê về phổ thu nhập của người lao động nên đánh thuế ở sau mức thu nhập tập trung số người nhiều nhất (có thể gọi là: Thu nhập MỐT).

Do đó, mức thu nhập bị đánh thuế cao nên cân nhắc được điều chỉnh từ 20 - 25 triệu đồng/tháng để phản ánh đúng thực trạng thu nhập và tránh đánh thuế nặng vào nhóm thu nhập trung lưu, tạo sự ổn định theo thời gian bên cạnh tập trung quản lý nhóm siêu giàu.

Điều chỉnh mức giảm trừ thuế dựa trên thực tế kinh tế.

Bắt đầu áp dụng Luật thuế TNCN từ 2009 với mắc giảm trừ là 4 triệu đồng, sau đó đã được điều chỉnh lên 11 triệu đồng. Tuy nhiên, với tình hình giá cả sinh hoạt và chi phí sống ngày càng tăng, câu hỏi đặt ra là mức này có còn hợp lý hay không? Việc xác định mức giảm trừ cần dựa trên các yếu tố như:

Chỉ số CPI (Chỉ số giá tiêu dùng) để phản ánh lạm phát.

Thu nhập bình quân đầu người để phù hợp với mức sống chung.

Mức lương tối thiểu để đảm bảo người lao động có đủ chi phí duy trì cuộc sống.

Nếu các chỉ số này có sự gia tăng đáng kể, mức giảm trừ gia cảnh cũng cần được điều chỉnh theo tương ứng, thay vì giữ nguyên trong thời gian dài mà không có sự thay đổi phù hợp với thực tế. Điều chỉnh lần sau cũng cần tính đến sự ổn định trong một khoảng thời gian sau đó.

Cải cách biểu thuế lũy tiến để đảm bảo công bằng

Biểu thuế lũy tiến hiện nay áp dụng từ 5% đến 35% với 7 bậc thuế khác nhau, nhưng các bậc thuế đang quá dày và biên độ giữa các bậc quá hẹp, khiến mức thuế suất và số thuế tăng cao ngay cả khi thu nhập chỉ tăng nhẹ. Điều này dẫn đến tình trạng người có thu nhập tăng trung bình cũng nhanh chóng bị đẩy vào nhóm chịu thuế cao, tạo ra áp lực tài chính lớn và giảm động lực lao động. Một phương án cải cách hợp lý là điều chỉnh khoảng cách giữa các bậc. Việc giãn khoảng cách giữa các bậc thuế theo hệ số hợp lý (ví dụ hệ số 2) sẽ giúp hệ thống thuế trở nên ổn định, độ mở cao, tạo động lực tăng thu nhập, tránh tình trạng người lao động có thu nhập trung bình vẫn phải chịu thuế suất cao một cách bất hợp lý. Đồng thời, số lượng bậc thuế có thể giảm từ 7 bậc xuống còn 5 bậc, giúp đơn giản hóa hệ thống tính thuế mà vẫn đảm bảo nguồn thu hợp lý cho ngân sách Nhà nước. Điều này không chỉ tạo ra sự công bằng hơn giữa các nhóm thu nhập mà còn khuyến khích người lao động gia tăng thu nhập mà không lo bị đánh thuế quá mức.

Thay vì mức thuế suất khởi điểm từ 5% với thu nhập 5 triệu đồng, có thể thiết lập lại như sau: Với hệ số giãn cách = 2

Bậc 1: Thu nhập từ 0 - 10 triệu đồng: 5%

Bậc 2: Thu nhập từ 10 - 30 triệu đồng: 10%.

Bậc 3: Thu nhập từ 30 - 70 triệu đồng: 15%.

Bậc 4: Thu nhập từ 70 - 150 triệu đồng: 20%.

Bậc 5: Thu nhập trên 150 triệu đồng: 25%

Mức thuế suất nên tối đa là 25% đối với Việt Nam, khi thu nhập bình quân không cao, nền kinh tế cần tích lũy và đầu tư, thuế TNDN đang ở mức 20%, tạo động lực cho người lao động... Sau này thu nhập đạt mức thu nhập cao chúng ta có thể tăng thuế suất.

Cải tiến phương thức khai thuế cá nhân để giảm sai sót

Hiện nay, thuế thu nhập cá nhân chủ yếu được thu theo phương thức khấu trừ tại nguồn, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp hoặc đơn vị chi trả sẽ trích một phần thu nhập của người lao động để nộp thuế thay. Tuy nhiên, với những người có nhiều nguồn thu nhập khác nhau, hệ thống hiện tại còn tồn tại bất cập khi không đồng bộ dữ liệu giữa các nguồn thu, dẫn đến tình trạng người nộp thuế có thể bị yêu cầu tự quyết toán thuế hoặc bị truy thu thuế, dù trước đó đã thực hiện khấu trừ thuế tại nguồn. Phần mềm Etax như đề cập ở trên đã có cải thiện nhưng chưa thực sự như mong đợi.

Một trong những đề xuất cải thiện quan trọng là:

Khi các đơn vị chi trả thu nhập nộp tờ khai quý cần cập nhật thu nhập cá nhân hàng quý và số thuế tạm nộp thông qua hệ thống điện tử, dữ liệu được nổi trên E-tax. Thay vì chờ đến cuối năm mới quyết toán thuế, người lao động có thể theo dõi cập nhật kê khai thu nhập từ các nguồn khác nhau theo từng quý.

Kết thúc cuối năm, sang 3 tháng đầu năm sau, hệ thống phần mềm sẽ tự động tổng hợp, tính toán thuế và thông báo số tiền cần nộp. Gửi thông báo cho người nộp thuế: Có đồng ý với số thuế trên phần mềm tính thuế hay không? Đồng ý, tự động nộp. Nếu có sai sót, người nộp thuế có thể điều chỉnh xác thực cơ quan thuế qua phần mềm. Nộp bổ sung hay thoái trả tiền thuế được thực hiện tự động qua app.

Ví dụ, nếu một cá nhân có thu nhập từ giảng dạy, tư vấn, đầu tư chứng khoán, bất động sản, phần mềm sẽ tổng hợp tất cả các nguồn thu này theo từng kỳ, giúp tính toán số thuế phải nộp một cách chính xác. Gửi thông báo, nếu người nộp thuế đồng ý, hệ thống sẽ tự động trích nộp thuế mà không cần thực hiện thủ tục thủ công, giúp giảm thiểu sai sót, tránh trường hợp bị truy thu hoặc phạt do chênh lệch số liệu.

Ứng dụng công nghệ để đồng bộ thông tin thu nhập

Một trong những vấn đề khiến người dân gặp khó khăn trong việc tuân thủ thuế là thiếu sự đồng bộ giữa các nguồn thu nhập. Ví dụ, khi một cá nhân có thu nhập từ nhiều nơi nhưng mỗi nơi lại thực hiện khấu trừ thuế khác nhau (thu nhập trên 2 triệu thì khấu trừ, dưới 2 triệu không khấu trừ), việc kê khai tổng thu nhập có thể bị sai lệch.

Để giải quyết vấn đề này, cần xây dựng hệ thống quản lý thuế hiện đại dựa trên công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) và kết nối trực tiếp với các đơn vị chi trả thu nhập. Khi đó, tất cả các khoản thu nhập sẽ được cập nhật tự động vào hệ thống thuế, giúp người nộp thuế có thể kiểm soát nghĩa vụ thuế của mình theo thời gian thực.

Việc ứng dụng công nghệ không chỉ giúp đơn giản hóa quy trình kê khai thuế, mà còn giúp giảm gánh nặng hành chính cho cả cơ quan thuế và người dân, đồng thời tăng cường tuân thủ thuế.

Hoàn thiện hệ thống khai thuế để nâng cao tính tuân thủ

Hiện nay, nhiều người dân không cố ý vi phạm quy định về thuế nhưng lại bị phạt do quy trình kê khai phức tạp, thiếu đồng bộ, do có những cách khác nhau dẫn đến số thuế nộp khác nhau ví dụ như ủy quyền kê khai với khấu trừ 10% hay tự kê khai thuế. Một số trường hợp đã nộp thuế nhưng do các khoản thu nhập chưa được cập nhật đầy đủ, họ vẫn bị yêu cầu tự kê khai, gây mất thời gian và tạo cảm giác không công bằng.

Để nâng cao mức độ tuân thủ, cần có cơ chế hoàn thuế tự động nếu người dân đã nộp thừa. Thay vì phải thực hiện thủ tục hoàn thuế phức tạp, hệ thống có thể tự động xác định số thuế thừa và hoàn trả trực tiếp vào tài khoản của người nộp thuế chỉ bằng một thao tác đơn giản. Điều này không chỉ giúp người dân dễ dàng thực hiện nghĩa vụ thuế mà còn tạo niềm tin vào hệ thống thuế.

Tóm lại, cải tiến phương thức khai thuế, ứng dụng công nghệ để đồng bộ dữ liệu thu nhập và xây dựng hệ thống hoàn thuế minh bạch là những giải pháp cần thiết để đảm bảo công bằng trong thuế thu nhập cá nhân, giúp tăng hiệu quả thu ngân sách mà không tạo ra gánh nặng không đáng có đối với người lao động.

Kết luận

Xu hướng cải cách thuế TNCN của các nước hiện nay đều tập trung vào mục tiêu chính: Thứ nhất là giảm gánh nặng thuế cho người lao động, những người sống chủ yếu bằng tiền lương, tiền công, tiền thù lao. Thứ hai là tăng cường công bằng thuế đặc biệt cần tạo công bằng dọc. Thứ ba là mở rộng cơ sở thuế thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế số và toàn cầu hóa.

Vì vậy bài viết khuyến nghị:

Ứng dụng công nghệ, số hóa để cải thiện hệ thống thuế: Việc ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) có thể giúp đồng bộ thông tin thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó quản lý được dòng tiền và điểm đến, minh bạch về tài chính trong quản lý thuế.

Với thuế TNCN cần triển khai cập nhật thu nhập cá nhân hàng quý thay vì chờ quyết toán thuế vào cuối năm. Điều này giúp người dân có thể điều chỉnh sai sót kịp thời, tránh tình trạng bị truy thu thuế do chênh lệch thu nhập giữa các nguồn. Ngoài ra, cần xây dựng hệ thống hoàn thuế tự động. Nếu người dân đã nộp thuế thừa, thay vì phải làm thủ tục rườm rà, hệ thống có thể tự động xác định và hoàn trả số thuế thừa vào tài khoản của người nộp thuế.

Giảm số lượng bậc thuế và điều chỉnh mức thuế suất hợp lý: Nên giảm số bậc thuế từ 7 bậc xuống còn 5 bậc, đồng thời mở rộng khoảng cách giữa các bậc. Ngoài ra, thuế suất cao nhất có thể điều chỉnh về mức hợp lý hơn, khoảng 25%, thay vì 35% như hiện nay.

Cập nhật chính sách miễn giảm thuế đối với tầng lớp trung lưu để phù hợp với thực tế.

Mức giảm trừ gia cảnh hiện nay đã lỗi thời so với mức sống thực tế, không phản ánh đúng chi phí sinh hoạt của người lao động. Do đó, cần điều chỉnh mức giảm trừ này dựa trên các yếu tố kinh tế như CPI, thu nhập bình quân đầu người và mức lương tối thiểu. Cần có số liệu về thu nhập Mốt (tức là mức thu nhập có số đông người lao động nhất).

Nghiên cứu cho phép trừ vào thu nhập tính thuế các khoản từ thiện của cá nhân, tạo tính nhân văn và tương đồng với thuế TNDN khi được trừ các khoản từ thiện nhân đạo vào chi phí trước khi tính thuế.

Điều chỉnh thuế đối với thu nhập từ bất động sản và chứng khoán.

Hiện nay, thuế đối với giao dịch chứng khoán được tính 0,1% trên tổng giá trị giao dịch, bất kể nhà đầu tư lãi hay lỗ. Điều này không hợp lý, vì ngay cả khi thua lỗ, nhà đầu tư vẫn phải nộp thuế (thực tế đến 80% nhà đầu tư chứng khoán thua lỗ). Một phương án hợp lý hơn là chỉ thu thuế trên lợi nhuận ròng, thay vì đánh thuế trên toàn bộ giao dịch. Hệ thống dữ liệu và phần mềm công ty chứng khoán ngày hôm nay có thể giải quyết vấn đề này.

Đối với thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản, hiện đang áp dụng hai cách tính: Thuế 2% trên giá trị giao dịch hoặc thuế 20% trên chênh lệch giá mua - bán; kết hợp với chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp khai báo không đúng giá trị thật.

Tăng tính minh bạch và đơn giản hóa thủ tục thuế.

Một trong những nguyên nhân khiến người dân ngại kê khai thuế là thủ tục hành chính còn rườm rà, thiếu minh bạch. Việc đơn giản hóa, tự động hóa quy trình khai thuế và hoàn thuế sẽ giúp khuyến khích người dân tuân thủ quy định thuế tốt hơn.

Bên cạnh đó, cần có cơ chế giải quyết công bằng, tránh trường hợp người có ý thức tuân thủ bị phạt do lỗi hành chính không đáng có, trong khi những đối tượng cố tình trốn thuế lại không bị phát hiện hay xử lý nghiêm minh.

https://laodong.vn/kinh-doanh/thay-doi-can-thiet-trong-hoan-thien-luat-thue-thu-nhap-ca-nhan-1476788.ldo

PGS.TS PHAN HỮU NGHỊ PHÓ VIỆN TRƯỞNG VIỆN NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH, ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

In
Về đầu
Lượt truy cập: