Các chuyên gia và lãnh đạo trường đại học nhìn nhận, mô hình đại học trong đại học tại Việt Nam đang có nhiều vướng mắc, cần rà soát lại.
Đại học Quốc gia Hà Nội hiện có 9 trường đại học thành viên. Ảnh: VNU
Rắc rối cấu trúc đại học nhiều cấp
Theo Luật Giáo dục Đại học năm 2018, trường đại học và đại học là hai khái niệm khác nhau. Trường đại học là cơ sở đào tạo nhiều ngành nhưng không đào tạo nhiều lĩnh vực. Trong khi đại học sẽ đào tạo trên nhiều lĩnh vực, mỗi lĩnh vực có nhiều ngành. Do đó, đại học sẽ bao gồm các trường đại học.
Hiện, cả nước có 10 đại học, trong đó có 5 đại học quốc gia và vùng.
TS Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam - cho rằng, trước năm 1993, ở Việt Nam không có các đại học đa lĩnh vực.
TS Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Tất cả cơ sở giáo dục đại học, để phục vụ cho nhu cầu nhân lực của một nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đều được xây dựng theo mô hình của Liên Xô cũ, tức là đều là các trường đại học chuyên ngành.
“Cái gọi là Trường Đại học Tổng hợp trên thực tế cũng chỉ là trường đào tạo về khoa học cơ bản” - ông Khuyến nói.
Phân tích rõ thêm về mô hình đại học trong đại học, ông Khuyến cho biết, để triển khai Nghị quyết TW4 (Khóa 7), Nhà nước chủ trương xây dựng các đại học đa lĩnh vực và trong 2 năm 1993 và 1994, lần lượt 5 đại học đa lĩnh vực là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TPHCM, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế và Đại học Đà Nẵng được thành lập, dựa trên nguyên tắc gom một số cơ sở giáo dục đại học chuyên ngành trên cùng một địa bàn lại với nhau.
Như đề xuất ban đầu từ Đề án quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo trình lên Hội đồng Bộ trưởng (tức Chính phủ) từ năm 1992, tất cả đại học đa lĩnh vực phải được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo, với một hệ thống quản trị 3 cấp là: đại học (University), trường (College) và khoa (Department), tức là theo mô hình các University của Mỹ.
Tuy nhiên, quá trình triển khai, vì nhiều lý do, cấu trúc 3 cấp là trường - khoa - bộ môn (kiểu quản trị của Liên Xô cũ) về căn bản vẫn được giữ nguyên ở các trường thành viên. Còn tại các đại học đa lĩnh vực đều có cấu trúc 4 cấp: đại học - trường - khoa - bộ môn.
“Để giữ được vị thế vốn từng là một trường đại học độc lập, các trường thành viên khi chuyển ngữ cấu trúc 4 cấp trên qua tiếng Anh thường sử dụng mô hình: University - University - Faculty - Department, gây ra sự hiểu lầm trong các đồng nghiệp nước ngoài cho rằng các đại học đa lĩnh vực ở Việt Nam là các tập đoàn đại học” - TS Lê Viết Khuyến phân tích.
Trong khi đó, theo ông Khuyến, đại học đa lĩnh vực phải được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo, với một hệ thống quản trị 3 cấp: đại học (University), trường (College) và khoa (Department). Cấp trường nằm trong University, hoàn toàn không được xem như một trường đại học độc lập.
Thế nhưng, Luật Giáo dục Đại học 2012 lại gọi đại học đa lĩnh vực là mô hình đại học hai cấp (University trong University), hay mô hình đại học mẹ - đại học con. Thực chất đây là mô hình liên hiệp các trường đại học chuyên ngành với 4 cấp quản lý: Đại học - trường đại học - khoa - bộ môn. Và chính chuyên gia của World Bank cũng nhận định mô hình này chẳng giống ở nước nào.
Thiếu vắng sức mạnh tổng hợp của một đại học đa lĩnh vực
Ông Khuyến nhìn nhận, việc gom một số cơ sở giáo dục đại học chuyên ngành thành đại học nhằm phát huy sức mạnh của các đơn vị thành viên, cùng chia sẻ trí tuệ, chất xám. Nhưng rõ ràng, việc này không đạt hiệu quả.
Các trường thành viên trong đại học đa lĩnh vực có quyền tự chủ cao nên hoạt động gần như độc lập, không phối hợp với nhau, trước hết là về mặt đào tạo. Do đó, không thể hiện được sức mạnh tổng hợp của mình như những đại học đa lĩnh vực đích thực.
Bên cạnh đó, hệ thống văn bản, pháp quy vẫn còn một số bất cập: Đại học không được xem là một chỉnh thể thống nhất, Hội đồng đại học không phù hợp với tinh thần tự chủ đại học (mà chỉ thể hiện tư duy phân quyền); Các trường thành viên được nhà nước công nhận có tư cách gần như một trường đại học độc lập, điều này làm vô hiệu hóa cấp đại học, mất đi sức mạnh tổng hợp vốn có của một đại học đa lĩnh vực.
“Những vấn đề tồn tại trên cũng là nguyên nhân kéo theo hiện tượng "đòi ly khai”. Trong quá khứ, không ít trường thành viên đòi tách ra độc lập khỏi đại học vùng. Bên cạnh đó, còn là việc nâng các trường đại học hoặc liên kết các trường đại học thành các “đại học dưới chuẩn” mà không có tổ chức sắp xếp lại” - TS Lê Viết Khuyến phân tích.
Ông Bùi Xuân Hải - Hiệu trưởng Trường Đại học Hải Phòng:
Hiện trên thế giới gần như không xuất hiện mô hình đại học hai cấp, nghĩa là không có các "trường đại học trong đại học".
Còn tại Việt Nam, năm 1995-1996, mô hình đại học quốc gia ra đời. Một số đơn vị đưa nhiều trường thành viên vào và lập rất nhiều khoa. Những năm gần đây, các khoa này lần lượt trở thành trường thành viên. Có những trường thành viên nho nhỏ, quy mô chỉ khoảng 100 giáo viên với vài nghìn sinh viên cũng ra đời.
Điều này khiến các trường thành viên không thể phát triển, đồng thời rơi vào cảnh "một cổ hai tròng", vừa chịu sự quản lý của đại học và của cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy là trái với nguyên tắc tự chủ đại học.
Ông Vũ Hoàng Linh - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội:
Mô hình đại học 2 cấp đang có nhiều vướng mắc, cần phải rà soát. Dưới góc nhìn là người làm chuyên môn, ông Linh cho hay, khó nhất của mô hình đại học không phải về quản lý, mà là khi làm việc với đối tác nước ngoài.