Phát triển điện hạt nhân gặp khó về công nghệ, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực
Ngày 29.5.2025, Báo Lao Động phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức Hội thảo “Giải pháp chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero” nhằm đề xuất các giải pháp tháo gỡ nút thắt trong việc chuyển đổi năng lượng.
Hành trình chuyển đổi năng lượng xanh của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Ảnh: Duy Hưng
16h: Phóng viên Duy Cường (Thời báo VTV): Trong bài phát biểu của các chuyên gia có nhắc đến nhiều dự án điện tái tạo vướng mắc chờ phê duyệt. Các đơn vị đã có kế hoạch gì cho vấn đề này?
Phóng viên Duy Cường (Thời báo VTV) đặt câu hỏi tới Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Ảnh: Hải Nguyễn
Đại diện EVN, ông Nguyễn Tài Anh - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết: Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 233/NQ-CP về việc tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho các dự án điện năng lượng tái tạo. Thực hiện theo Nghị quyết này, EVN sẽ rà soát trong thực tiễn, những vướng mắc cụ thể của các dự án. Chúng tôi sẽ báo cáo Bộ Công Thương để có phương hướng tháo gỡ.
Chuyển đổi năng lượng là xu thế tất yếu mà Việt Nam phải thực hiện. Trong quá trình này, chắc chắn sẽ có những giai đoạn phát sinh chi phí tăng thêm. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải xem xét và tối ưu hóa để chi phí chuyển đổi vẫn nằm trong mức độ chấp nhận được đối với nền kinh tế. EVN đã xây dựng các kịch bản tính toán chi phí theo hướng đảm bảo phù hợp với khả năng chịu đựng của người dân và doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Tài Anh - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Ảnh: Hải Nguyễn
Chính phủ đã có những chỉ đạo rõ ràng về chuyển đổi năng lượng. EVN đang xây dựng lộ trình cụ thể để triển khai theo đúng định hướng, phù hợp các chiến lược quốc gia đã đề ra.
Về mặt giải pháp, hiện nay chúng tôi đang tập trung vào 6 nhóm giải pháp chính:
1. Phát triển các nguồn năng lượng sạch và tái tạo, phù hợp với cam kết giảm phát thải.
2. Ứng dụng công nghệ hiện đại, thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực điện lực.
3. Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, cải thiện quản trị vận hành hệ thống điện.
4. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ chuyên gia kỹ thuật có năng lực tiếp cận công nghệ mới, vận hành hệ thống điện hiện đại.
5. Huy động nguồn vốn, trong đó đặc biệt cần sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế, bởi đây là lĩnh vực đầu tư lớn, dài hạn và phức tạp. Chúng tôi rất mong có sự đồng hành, chia sẻ về mặt tài chính, kỹ thuật từ các định chế quốc tế.
6. Cải cách cơ chế chính sách và giá điện, để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển hạ tầng điện và năng lượng tái tạo.
Ngoài ra, hiện có 8 nhóm điều chỉnh lớn trong cơ chế chính sách để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng diễn ra đúng hướng, hiệu quả và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Những điều chỉnh này sẽ tạo ra bước tiến mạnh mẽ, giúp Việt Nam đáp ứng được các tiêu chí trong quá trình phát triển bền vững và hội nhập quốc tế về năng lượng.
15h50: Phó Tổng Biên tập Báo Lao Động Nguyễn Đức Thành: Với những ý kiến của các chuyên gia vừa nêu, theo ông Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc Chuyên môn, VP Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV), thời gian tới chúng ta cần làm gì để thu hút tư nhân vào năng lượng?
TS. Bùi Thanh Minh - Phó Giám đốc Chuyên môn, VP Ban Nghiên cứu Phát Triển Kinh tế tư nhân (Ban IV). Ảnh: Hải Nguyễn
Ông Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc Chuyên môn, VP Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) cho ý kiến: Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với hai mục tiêu lớn: trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 và đạt Net Zero vào năm 2050. Để hiện thực hóa điều đó, nền kinh tế phải chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng xanh, sáng tạo và số hóa, thay cho mô hình tăng trưởng cũ dựa trên tài nguyên và lao động giá rẻ.
Hiện nay, gần 50% điện năng vẫn phụ thuộc vào than đá, gây khó khăn trong thực hiện các cam kết giảm phát thải và đối mặt với rủi ro môi trường, chi phí. Trong khi đó, Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo nhưng vướng nhiều rào cản về hạ tầng, pháp lý, cơ chế giá và vốn.
Chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn, mà là điều kiện sống còn để duy trì năng lực cạnh tranh trong bối cảnh các thị trường lớn siết chặt tiêu chuẩn xanh. Các định hướng lớn của Đảng hiện nay, thể hiện qua “Bộ tứ trụ cột” gồm các Nghị quyết 57, 59, 66 và 68, đang mở ra công cuộc “Đổi mới 2.0”, tạo nền tảng chính sách vững chắc cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đây là thời điểm chín muồi để Việt Nam tái định vị chính sách năng lượng, chuyển từ phụ thuộc nhiên liệu hóa thạch sang phát triển năng lượng xanh, với khu vực tư nhân giữ vai trò chủ lực.
Nhu cầu năng lượng tái tạo là rất cần thiết hiện nay và nhận được sự quan tâm. Năm 2025 là năm bản lề để hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để bước vào giai đoạn phát triển mới. Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP đạt từ 8% trở lên, làm nền tảng hướng tới tốc độ hai con số trong giai đoạn 2026-2030. Phụ lục I của Nghị quyết 25/NQ-CP nêu rõ: tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu năm 2025 cần tăng từ 12,5%-13%. Bộ Công Thương được giao theo dõi, đánh giá chỉ tiêu này.
Cùng với đó, Nghị quyết 192/2024/QH15 của Quốc hội cũng đề ra các giải pháp trọng tâm: sớm ban hành Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), tháo gỡ khó khăn cho các dự án năng lượng tái tạo, thúc đẩy chuyển đổi xanh và đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Với giả định hệ số đàn hồi điện là 1,5, nếu GDP tăng 8% thì nhu cầu điện có thể tăng tới 12%. Điều này đồng nghĩa hệ thống phải bổ sung khoảng 2.200-2.500 MW công suất mới chỉ trong năm 2025, tạo áp lực lớn cho hạ tầng nguồn và lưới điện quốc gia.
Việt Nam không chỉ cần bổ sung nhanh công suất điện mà còn phải tái cấu trúc mô hình cung cầu năng lượng theo hướng bền vững. Ưu tiên hiện nay là nâng cao hiệu quả sử dụng điện, giảm hệ số đàn hồi điện/GDP và hoàn thiện cơ chế khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo.
Trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số giai đoạn 2026-2030, nhu cầu điện dự báo sẽ tăng mạnh. Đồng thời, để thực hiện cam kết khí hậu, Việt Nam buộc phải giảm tỉ trọng điện than, gia tăng sản lượng điện từ nguồn tái tạo và đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi xanh.
Để thực hiện mục tiêu kép và triển khai hiệu quả các chủ trương của Đảng, Việt Nam cần xây dựng một khung chính sách phát triển năng lượng tái tạo đồng bộ, khả thi, đi kèm lộ trình rõ ràng, phân định trách nhiệm các bên liên quan và hệ thống KPIs minh bạch.
Tôi xin đề xuất 4 nhóm kiến nghị chính:
1. Ban hành tiêu chí xác nhận dự án xanh: Là cơ sở cho tín dụng xanh, trái phiếu xanh và các ưu đãi. Đây là nền tảng phát triển thị trường tài chính xanh và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
2. Triển khai hiệu quả cơ chế mua bán điện trực tiếp (Direct PPA): Cho phép doanh nghiệp lớn ký hợp đồng với nhà phát điện tái tạo, thúc đẩy hình thành các cụm công nghiệp xanh. Cần ban hành hướng dẫn kỹ thuật về đấu nối, chi phí và thanh toán.
3. Thí điểm thị trường carbon trong nước: Theo đúng lộ trình, thiết lập sàn giao dịch tín chỉ carbon, hoàn thiện hệ thống MRV và kết nối với cơ chế quốc tế theo Thỏa thuận Paris.
4. Đầu tư đồng bộ cho hạ tầng năng lượng: Ưu tiên hệ thống truyền tải, lưu trữ điện và quy hoạch tích hợp điện - đất - biển. Hạ tầng đủ năng lực là điều kiện cần để hấp thụ và phân phối điện tái tạo quy mô lớn.
Nghị quyết 57 và 68 đã nhấn mạnh vai trò trọng tâm của năng lượng mới, sạch và khu vực tư nhân. Đòi hỏi đặt ra là phải có chính sách nhất quán, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và tạo môi trường pháp lý ổn định.
Song song đó, cần ưu tiên thu hút đầu tư tư nhân vào hạ tầng năng lượng tái tạo, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng xanh, phát triển theo tiêu chuẩn ESG, nâng cao năng lực và đào tạo nhân lực cho nền kinh tế carbon thấp.
15h30: PGS.TS Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách Khoa Hà Nội): Xin cảm ơn TS. Hoàng Sỹ Thân đã cung cấp cho Hội thảo góc nhìn sâu sắc về các vấn đề liên quan đến phát triển nhà máy điện cùng các giải pháp, đề xuất hết sức thiết thực nhà máy điện hạt nhân.
Thưa quý vị đại biểu, đến tham dự với Hội thảo hôm nay, còn có sự hiện diện của ông Hong Sun - Chủ tịch danh dự Hiệp hội Thương mại Hàn Quốc tại Việt Nam (KoCham).
Được biết, nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đang đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, các doanh nghiệp cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai dự án. Thưa ông Hong Sun, ông có đề xuất kiến nghị gì về chính sách, môi trường đầu tư của Việt Nam?
Ông Hong Sun - Chủ tịch danh dự Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KoCham). Ảnh: Hải Nguyễn
Ông Hong Sun, Chủ tịch danh dự Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KoCham): Hiện nay, chúng tôi có 10.000 doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam. Thời gian tới, nhiều nhà đầu tư lớn nữa có thể tiếp tục đầu tư vào đây.
Doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư rất nhiều vào các lĩnh vực như chế tạo sản xuất, đặc biệt lĩnh vực công nghệ cao, AI... Những lĩnh vực này đều yêu cầu lớn về nguồn năng lượng.
Tại COP26, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cam kết Net Zero vào năm 2050. Việt Nam là quốc gia có nguồn lực phong phú về điện tái tạo như điện gió, điện mặt trời, điện hạt nhân… Do đó, chúng tôi hy vọng các nhà máy tại tạo, nhất là điện hạt nhân của Việt Nam thời gian tới sớm đi vào hoạt động.
Hiện nay, Việt Nam có nhiều chính sách tạo cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài. Thủ tục đầu tư ngày càng nhanh hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, doanh nghiệp Hàn Quốc vẫn mong, thời gian thực hiện thủ tục tiếp tục rút ngắn hơn nữa trong thời gian tới, nhất là trong lĩnh vực đầu tư năng lượng điện hạt nhân. Doanh nghiệp Hàn Quốc cũng mong Việt Nam đẩy nhanh giải phóng mặt bằng tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài.
Từ năm 1971, Hàn Quốc đã sản xuất điện hạt nhân. Qua hơn 50 năm hình thành, phát triển, các nhà máy điện hạt nhân chưa bao giờ gặp sự cố, ngành năng lượng ngày càng phát triển có thể xuất khẩu. Chúng tôi rất mong Việt Nam cũng sẽ phát triển điện hạt nhân.
Có thể nói, giải pháp chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero không phải là lựa chọn mà yêu cầu bắt buộc. Do đó, doanh nghiệp Hàn Quốc chúng tôi sẵn sàng đồng hành cùng Việt Nam trong việc chuyển đổi năng lượng.
15h20: Trả lời cho câu hỏi: Trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, vừa qua để đáp ứng nhu cầu năng lượng, Đảng và Chính phủ cũng đã quyết định chủ trương khởi động lại chương trình phát triển các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Dự án đạt đồng thuận cao nên thuận lợi triển khai nhưng cũng gặp phải nhiều thách thức, đặc biệt là về công nghệ, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, TS. Hoàng Sỹ Thân - Trưởng Ban Kế hoạch và Quản lý khoa học, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam - cho biết:
Triển khai lại chương trình điện hạt nhân là một chủ trương lớn, nhận được sự đồng thuận cao, song cũng đi kèm nhiều thách thức. Trước hết là vấn đề đồng thuận xã hội. Việc xây dựng niềm tin của công chúng đối với năng lượng hạt nhân là yếu tố rất quan trọng, đòi hỏi phải có chiến lược truyền thông rõ ràng và minh bạch.
TS. Hoàng Sỹ Thân - Trưởng Ban Kế hoạch và Quản lý khoa học (Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam). Ảnh: Hải Nguyễn
Thách thức thứ hai là về công nghệ. Nếu Việt Nam hợp tác với đối tác nào thì phải theo công nghệ của đối tác đó. Đối với dự án Ninh Thuận 2 hiện nay, Chính phủ đã giao hai nhà đầu tư là EVN và Petrovietnam nhưng chưa xác định rõ đối tác công nghệ. Đây là điểm cần được sớm làm rõ. Trường hợp hợp tác với phía Nhật Bản thì cần tính thêm khả năng hợp tác song song với một đối tác khác - chẳng hạn từ Hàn Quốc - để bảo đảm tính khả thi của dự án.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là hạ tầng pháp lý, nhân lực và khoa học công nghệ. Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ đã thành lập tổ công tác về điện hạt nhân, chuẩn bị triển khai nhiều nội dung liên quan, đặc biệt là xây dựng cơ sở pháp lý. Khi luật được thông qua, sẽ cần có hàng loạt thông tư, nghị định hướng dẫn được ban hành kịp thời để tạo hành lang pháp lý đầy đủ và thống nhất.
Về nguồn nhân lực, theo chúng tôi, nên tập trung đào tạo tại một vài cơ sở trọng điểm để bảo đảm chất lượng, điển hình như Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và một trường đại học ở TPHCM. Bên cạnh nhân lực chuyên môn cao, cần quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia kỹ thuật phục vụ cho toàn chuỗi vận hành nhà máy điện hạt nhân.
Về giải pháp: Để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực điện hạt nhân, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm như sau:
Trước hết, cần thành lập cơ quan pháp quy hạt nhân có tính độc lập, đủ năng lực và chuyên nghiệp. Cơ quan này sẽ đảm nhận chức năng thực thi pháp luật, kiểm soát và giám sát an toàn hạt nhân một cách xuyên suốt. Đặc biệt đối với các dự án nhà máy điện hạt nhân, cơ quan pháp quy sẽ chịu trách nhiệm thẩm định và giám sát an toàn trong toàn bộ vòng đời dự án - từ khâu lựa chọn địa điểm, lập dự án đầu tư, xây dựng, vận hành thử, vận hành chính thức, giám sát trong quá trình hoạt động, cho đến khi chấm dứt vận hành, tháo dỡ và phục hồi môi trường.
Song song với đó, cần bổ sung quy định về các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật cho cả cơ quan pháp quy và chủ đầu tư. Đây có thể là các viện nghiên cứu, trường đại học có đủ năng lực để đánh giá công nghệ điện hạt nhân và phân tích an toàn. Việc này sẽ góp phần bảo đảm tính khách quan, khoa học và chuyên sâu trong quá trình thẩm định và giám sát kỹ thuật.
Một đề xuất quan trọng là cho phép thành lập Quỹ Nghiên cứu và Phát triển hạt nhân, với nguồn đóng góp từ ngân sách nhà nước và một phần từ doanh thu bán điện của nhà máy điện hạt nhân. Quỹ này sẽ hỗ trợ thúc đẩy nghiên cứu - phát triển công nghệ hạt nhân, nâng cao năng lực tiếp nhận chuyển giao công nghệ, đồng thời phát triển ngành công nghiệp hạt nhân trong nước. Đây là kinh nghiệm thực tiễn đã được triển khai hiệu quả tại các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản.
Ngoài ra, cần xây dựng các chính sách ưu đãi cụ thể cho các dự án điện hạt nhân, bao gồm miễn, giảm thuế nhập khẩu thiết bị; ưu đãi về tín dụng, lãi suất vay; và hỗ trợ tài chính cho hoạt động nghiên cứu, đặc biệt với các công nghệ lò phản ứng thế hệ mới như Gen III+, Gen IV.
Cuối cùng, để đảm bảo tính bền vững và hiệu quả, cần khuyến khích hợp tác quốc tế trong chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực. Việc hợp tác sâu rộng với các quốc gia có kinh nghiệm phát triển điện hạt nhân như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ giúp Việt Nam rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí và tiếp cận nhanh hơn với trình độ công nghệ hiện đại. Đồng thời, việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu và đào tạo chuyên sâu về năng lượng nguyên tử là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành điện hạt nhân trong tương lai.
15h15: PGS.TS Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách Khoa) đưa ra vấn đề: Sau khi nghe các tham luận vừa qua, các doanh nghiệp đang gặp phải những khó khăn, vướng mắc gì?
Tôi thấy rằng giá điện là các doanh nghiệp đầu tư năng lượng quan tâm hàng đầu. Xin được đặt câu hỏi với ông Nguyễn Tài Anh - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN): Hiện nay việc mua bán điện của EVN với các doanh nghiệp đầu tư năng lượng điện tái tạo, EVN đã thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Công Thương ra sao? Ngoài ra, EVN có kế hoạch tổng thể gì về năng lượng tái tạo?
Ông Trần Đăng Khoa - Ban Thị trường điện Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Ảnh: Hải Nguyễn
Đại diện EVN, ông Trần Đăng Khoa - Ban Thị trường điện Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) - cho rằng: EVN là bên mua điện duy nhất và tuân thủ theo hợp đồng mẫu và giá điện của Bộ Công Thương ban hành. Sau 31.12.2030 hết hiệu lực giá FiT với điện mặt trời, sau 31.10.2030 với ngành điện gió nhưng chúng ta chưa có giá điện mới.
Bộ Công Thương đang thẩm định và ban hành giá FiT mới. Bộ Công Thương đang ban hành giá đấu thầu với giá điện mới.
15h15: Phiên thảo luận mở của Hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia, đại diện doanh nghiệp.
Chủ tọa điều hành - Phó Tổng Biên tập Báo Lao Động Nguyễn Đức Thành: Qua những trao đổi vừa rồi của hai đại diện doanh nghiệp, không biết PGS.TS Đặng Trần Thọ có cảm nghĩ ra sao về giá điện?
PGS.TS Đặng Trần Thọ: Giá FiT mang một sứ mệnh lịch sử nhưng bây giờ đã qua rồi. Sứ mệnh lịch sử của nó là khởi động thị trường và khuyến khích đầu tư vào thị trường. Nếu không có giá FiT, chúng ta không có sự bùng nổ phát triển về năng lượng tái tạo từ 2018 đến nay. Nhưng sau khi hết cơ chế giá FiT rồi, đến giai đoạn thị trường bắt đầu chuyển tiếp, chúng ta phải có các hợp đồng mua bán trực tiếp, cạnh tranh, đấu thầu… Sau đó đến giai đoạn thị trường ổn định thì chúng ta có cơ chế. Giá FiT trước đây tính đồng đều. Bây giờ chúng ta chứng kiến từng vùng, miền cụ thể để phát triển.
14h52: Ông Nguyễn Thái Hà - Tổng Giám đốc Tập đoàn Năng lượng T&T trình bày tham luận “Tiềm năng và rào cản trong việc phát triển điện gió tại Việt Nam”.
Tập đoàn T&T hiện là một trong những Tập đoàn kinh tế tư nhân hàng đầu Việt Nam, hoạt động kinh doanh đa lĩnh vực với bảy lĩnh lĩnh vực chủ chốt gồm: Tài chính - Đầu tư; Bất động sản; Năng lượng - Môi trường; Hạ tầng giao thông - Cảng biển - Hàng không; Công Thương - Logictis; Nông nghiệp - Lâm nghiệp & Thủy sản; Y tế - Giáo dục & Thể thao, Tập đoàn có quy mô tổng tài sản khoảng 45.000 tỉ đồng, hơn 100 công ty con, công ty thành viên, liên danh liên kết hoạt động trong và ngoài nước với hơn 80.000 cán bộ, nhân viên.
Là một doanh nghiệp dân tộc, mang khát vọng cống hiến cho xã hội, Tập đoàn T&T coi năng lượng là lĩnh vực đầu tư mũi nhọn, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, thúc đẩy phát triển nền kinh tế xanh và bền vững. Với mục tiêu trở thành tập đoàn năng lượng hàng đầu Việt Nam, Tập đoàn T&T ưu tiên tập trung nguồn lực và tiên phong ứng dụng khoa học - công nghệ với mục tiêu đến 2030 tổng công suất phát điện đạt từ 8.000 - 10.000 MW, đến 2035 tổng công suất phát điện đạt từ 16.000-20.000 MW chiếm khoảng 10% tổng công suất nguồn điện quốc gia.
Ông Nguyễn Thái Hà - Tổng Giám đốc Tập đoàn Năng lượng T&T. Ảnh: Hải Nguyễn
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng điện gió hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Với đường bờ biển dài hơn 3.000km, nhiều vùng có tốc độ gió trung bình từ 7 đến 9 m/s, Việt Nam sở hữu lợi thế lý tưởng để khai thác nguồn năng lượng tái tạo này.
Theo Quy hoạch điện VIII Điều chỉnh được đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì tổng tiềm năng kỹ thuật điện gió trên bờ của Việt Nam khoảng 221 GW với nhiều khu vực có tốc độ gió tốt và ổn định quanh năm như Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Với điện gió ngoài khơi, tổng tiềm năng kỹ thuật khoảng 600 GW, nguồn năng lượng này được kỳ vọng đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi năng lượng, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam.
Với tiềm năng to lớn trên, điện gió được kỳ vọng không chỉ là một nguồn năng lượng sạch - mà còn là nền tảng chiến lược để chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải và hiện thực cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam, được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Cung cấp nguồn năng lượng sạch, quy mô lớn:
Điện gió trên bờ giúp nhanh chóng khai thác tiềm năng gió tại các khu vực có lưới điện truyền tải tốt, gần trung tâm tiêu tiêu thụ điện với chi phí đầu tư hợp lý và dễ triển khai.
Điện gió ngoài khơi với lợi thế có thể phát triển các trang trại gió quy mô lớn, nhu cầu sử dụng đất đai ít, tạo ra nguồn điện dồi dào và ổn định, phù hợp thay thế dần những nguồn điện sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch.
Góp phần giảm phát thải khí nhà kính:
Tham khảo dữ liệu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC)... thì mỗi MW điện gió có thể giúp giảm từ 2.000-2.500 tấn CO2 mỗi năm.
Theo Kế hoạch Đóng góp do Quốc gia tự xác định (NDC) (Ghi chú: NDC là là cam kết quốc gia về hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, được thiết lập theo Thỏa thuận Paris năm 2015) cập nhật năm 2022, tổng lượng phát thải khí nhà kính (GHG) đến năm 2030 của Việt Nam được dự báo khoảng 927,9 triệu tấn CO2, và nếu không thực hiện các biện pháp giảm phát thải mạnh mẽ, thì đến năm 2050 lượng phát thải khí nhà kính có thể tăng gần 1.519 triệu tấn CO2.
Căn cứ cơ cấu nguồn điện trong Quy hoạch điện VIII Điều chỉnh:
Đến năm 2030, điện gió trên bờ, gần bờ dự kiến từ 26.066MW-38.029 MW, điện gió ngoài khơi vận hành giai đoạn 2030-2035 từ 6.000MW - 17.032 MW. Nếu hoàn thành mục tiêu công suất trên thì điện gió có thể giúp Việt Nam giảm từ 64,13 - 110,06 triệu tấn CO2 mỗi năm, chiếm từ 6,91% - 11,86%.
Đến năm 2050, điện gió trên bờ và gần bờ từ 84.696MW-91.400MW, điện gió ngoài khơi từ 113.503MW-139.097MW. Nếu hoàn thành mục tiêu trên thì điện gió có thể giúp Việt Nam giảm 396,40 - 460,99 triệu tấn CO2 mỗi năm, chiếm từ 26,% - 30,35%
Thúc đẩy phát triển công nghiệp xanh và tạo việc làm; Tăng cường nội địa hóa thiết bị, từng bước phát triển chuỗi cung ứng trong nước; Tạo hàng trăm nghìn việc làm trong các lĩnh vực khảo sát, xây dựng, vận hành và bảo trì các nhà máy điện gió; Nâng cao an ninh năng lượng quốc gia; Giảm phụ thuộc vào nhập khẩu than, khí và dầu; Đa dạng hóa nguồn điện, tăng khả năng tự chủ về năng lượng trong dài hạn.
Thu hút đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ
Các dự án điện gió quy mô lớn là cơ hội huy động những nguồn vốn xanh quốc tế.
Thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao, tạo nền tảng cho nền kinh tế carbon thấp.
Từ những khía cạnh trên, có thể nhận thấy tiềm năng to lớn và vai trò quan trọng của điện gió trong việc chuyển đổi năng lượng và thực hiện cam kết NET ZERO. Tuy nhiên, việc phát triển điện gió, cụ thể là thực hiện mục tiêu công suất trong điện gió trên bờ và ngoài khơi trong theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đang đối mặt với nhiều rào cản, có thể kể đến một số thách thức chính sau:
Hành lang pháp lý, cơ chế chính sách chưa hoàn thiện: Khung pháp lý điện gió ngoài khơi chưa hoàn thiện: Hiện chưa có quy định cụ thể về quy hoạch không gian biển, trình tự cấp phép khảo sát và phát triển điện gió ngoài khơi. Điều này gây khó khăn trong triển khai, khi chưa có hướng dẫn chi tiết về quy trình nộp hồ sơ xin giấy phép khảo sát và các yêu cầu kỹ thuật; vấn đề chồng lấn khu vực biển chưa được giải quyết; các khu vực biển dành cho phát triển điện gió ngoài khơi và các tiêu chí liên quan chưa được công bố dẫn đến chậm trể thực hiện các công việc liên quan.
Chưa ban hành cơ chế giá điện cho ĐGNK: Bộ Công Thương hiện chưa chính thức ban hành khung giá phát điện cho các dự án điện gió ngoài khơi. Tuy nhiên, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã hoàn thiện các tính toán sơ bộ và đề xuất khung giá phát điện cho các dự án điện gió ngoài khơi tại ba khu vực địa lý trọng điểm: Khu vực miền Bắc: 3.975,1 đồng/kWh; Khu vực Nam Trung Bộ: 3.078,9 đồng/kWh; Khu vực miền Nam: 3.868,5 đồng/kWh.
Việc chưa chính thức ban hành khung giá phát điện khiến các nhà đầu tư gặp khó khăn trong tính toán hiệu quả tài chính.
Hạ tầng kỹ thuật, chuỗi cung ứng chưa sẵn sàng: Thiếu hạ tầng cảng biển chuyên dụng: Việc lắp đặt và vận chuyển thiết bị điện gió ngoài khơi đòi hỏi các cảng biển chuyên dụng, hiện tại Việt Nam chưa có đủ cơ sở hạ tầng này; Chưa hình thành chuối cung ứng trong nước, dẫn đến phụ thuộc vào thiết bị và công nghệ nhập khẩu làm tăng chi phí đầu tư và thời gian triển khai dự án.
Hạn chế về lưới điện và truyền tải
Quy hoạch lưới điện chưa đồng bộ: Nhiều khu vực có tiềm năng gió cao nhưng lưới điện chưa được đầu tư tương xứng, dẫn đến tình trạng quá tải hoặc giảm phát công suất.
Chưa có quy hoạch tuyến cáp ngầm dưới biển: Việc thiếu quy hoạch cụ thể cho các tuyến cáp ngầm kết nối điện gió ngoài khơi với lưới điện quốc gia cũng gây khó khăn trong việc triển khai dự án.
Thiếu nguồn nhân lực kinh nghiệm, chất lượng cao
Việc thiếu đội ngũ kỹ sư và chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi có thể ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng dự án.
Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc triển khai các dự án điện gió quy mô lớn, đặc biệt là ngoài khơi, dẫn đến rủi ro trong quá trình thực hiện.
Điều kiện tự nhiên, rủi ro môi trường
Thời tiết khắc nghiệt: Khí hậu nhiệt đới với bão và lũ lụt thường xuyên gây khó khăn cho việc xây dựng và vận hành các dự án điện gió.
Xung đột sử dụng không gian biển: Việc phát triển điện gió ngoài khơi có thể ảnh hưởng đến các hoạt động khác như đánh bắt thủy sản, giao thông hàng hải và quốc phòng.
Khó khăn trong huy động vốn đầu tư
Chi phí đầu tư cao: Các dự án điện gió, đặc biệt là ngoài khơi, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trong khi cơ chế hỗ trợ tài chính còn hạn chế.
Rủi ro chính sách: Sự thiếu ổn định và minh bạch trong chính sách khiến nhà đầu tư e ngại, dẫn đến việc một số tập đoàn quốc tế rút lui khỏi thị trường Việt Nam.
Từ những thách thức, rào cản trên. Tôi xin đề xuất một số biện pháp tháo gỡ thúc đẩy phát triển điện gió tại Việt Nam như sau: Hoàn thiện khung pháp lý: Ban hành luật và các văn bản hướng dẫn cụ thể cho phát triển điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi. Rút ngắn thời gian thẩm định phê duyệt dự án, đặc biệt là khâu giải pháp mặt bằng; Đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng. Cụ thể là phát triển các cảng biển chuyên dụng, lưới điện truyền tải, hình thành chuỗi cung ứng trong nước gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành dự án; Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ: Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ kỹ sư và chuyên gia trong lĩnh vực điện gió để tiếp nhận công nghệ thuật, tự chủ quản lý, vận hành các trang trại điện gió ngoài khơi quy mô lớn; Tạo cơ chế tài chính hấp dẫn như cam kết tỉ lệ bao tiêu sản lượng, thiết lập các cơ chế hỗ trợ tài chính, bảo lãnh tín dụng và thu hút vốn đầu tư quốc tế.
14h50: Ông Đoàn Ngọc Dương - Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) cho biết, sẽ tiếp thu những ý kiến mà PGS.TS Đặng Trần Thọ vừa chia sẻ. Trong quá trình triển khai sẽ tích hợp các kiến nghị của chuyên gia và xem xét luật hóa thời gian tới.
Ông Nguyễn Đức Thành, Phó Tổng Biên tập Báo Lao Động khẳng định: "Qua bài phát biểu của PGS.TS Đặng Trần Thọ, chúng ta thấy được thực trạng cũng như tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo. Bài phát biểu cũng chỉ ra những khó khăn trong thực hiện chính sách như khó khăn về nguồn vốn, thể chế. Bài phát biểu cũng đã góp ý nhiều chính sách để thực hiện trong tương lai gần. Tiếp theo xin mời ông Nguyễn Thái Hà - Tổng Giám đốc Tập đoàn Năng lượng T&T trình bày tham luận “Tiềm ẩn và rào cản trong việc phát triển điện gió tại Việt Nam”.
14h30: PGS.TS Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách Khoa Hà Nội): Năng lượng luôn đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế - xã hội, là “động cơ” vận hành của mọi ngành sản xuất, dịch vụ và đời sống dân cư. Theo IEA (2022), có mối quan hệ chặt chẽ giữa tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng GDP, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, giai đoạn 2010-2020, nhu cầu điện tăng trung bình 9-10%/năm, gần tương đương với tốc độ tăng GDP
Năng lượng không chỉ là trụ cột kinh tế mà còn liên quan trực tiếp đến các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), đặc biệt là các mục tiêu về khí hậu (SDG 13), công nghiệp hóa bền vững (SDG 9), và công bằng xã hội (SDG 7). Việc chuyển đổi năng lượng theo hướng xanh giúp giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, tăng cường chủ quyền năng lượng, đồng thời mở ra không gian đổi mới sáng tạo, tạo việc làm chất lượng cao trong các lĩnh vực như công nghệ sạch, năng lượng thông minh.
PGS.TS Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách Khoa Hà Nội). Ảnh: Hải Nguyễn
Trong những năm gần đây, ngoài những ngành công nghiệp tiêu thụ năng lượng lớn như: chế biến, chế tạo, sản xuất thép, xi măng… thì sự bùng nổ của một số ngành có mức tiêu thụ năng lượng lớn khác: phương tiện giao thông điện, trung tâm dữ liệu, trạm phát sóng 4G, 5G, công nghệ AI… đã đẩy mạnh tiêu thụ điện năng. Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, tổng công suất nguồn điện phải đạt từ 183-236 GW vào năm 2030. Điều này cho thấy vai trò sống còn của việc đảm bảo nguồn năng lượng ổn định, hiệu quả và thân thiện với môi trường.
Biến đổi khí hậu đã trở thành thách thức toàn cầu lớn nhất trong thế kỷ XXI, đòi hỏi mọi quốc gia phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát thải thấp và sử dụng hiệu quả tài nguyên. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo được coi là giải pháp trọng tâm để giảm phát thải khí nhà kính (GHG), đảm bảo an ninh năng lượng dài hạn và xây dựng nền kinh tế xanh, bền vững.
Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc tham gia vào xu thế này thông qua cam kết tại COP26 đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Đồng thời, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch điện VIII điều chỉnh tháng 4.2025 vừa qua, đặt mục tiêu đến năm 2030 tỉ trọng công suất năng lượng tái tạo (NLTT) đạt 36% và tỉ lệ năng lượng tái tạo trong sản lượng điện khoảng 33-35%. Đây là một bước ngoặt quan trọng, thể hiện sự chuyển dịch từ mô hình năng lượng truyền thống sang năng lượng xanh, bền vững.
Tuy nhiên, thực hiện được những mục tiêu này là một quá trình phức tạp, đòi hỏi tái cấu trúc toàn diện hệ thống năng lượng quốc gia: từ quy hoạch, đầu tư, vận hành đến thị trường và tiêu dùng. Đặc biệt đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vốn còn phụ thuộc nhiều vào điện than và có năng lực tài chính, thể chế hạn chế, việc chuyển đổi này đặt ra rất nhiều thách thức cần được phân tích, đánh giá và tháo gỡ một cách bài bản, có cơ sở khoa học và định hướng chính sách rõ ràng.
Tiềm năng phát triển năng lượng xanh của Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á. Về năng lượng mặt trời, bức xạ trung bình tại các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đạt 4,6–5,2 kWh/m²/ngày - cao hơn so với hầu hết các nước trong khu vực. Tiềm năng kỹ thuật điện mặt trời của Việt Nam ước tính trên 450 GW, vượt trội so với Thái Lan (~42 GW), Philippines (~29 GW) hay Malaysia (~30 GWp). Về điện gió, theo World Bank (2021), Việt Nam có tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi lên đến 600 GW, cao nhất ASEAN. Các vùng biển từ Quảng Trị đến Cà Mau có tốc độ gió ổn định, độ sâu phù hợp để phát triển điện gió cố định. So với Philippines (76 GW), Thái Lan (~10 GW) hay Indonesia (~20 GW), tiềm năng gió ngoài khơi của Việt Nam gấp từ 5 đến 10 lần.
Ngoài ra, Việt Nam còn có tiềm năng lớn về sinh khối nông nghiệp (~100 triệu tấn phụ phẩm mỗi năm), điện từ rác thải (hơn 60 triệu tấn rác sinh hoạt/năm), và thủy điện nhỏ (~2.500 MW chưa khai thác). Việc Việt Nam đi sau nhưng phát triển nhanh trong giai đoạn 2018–2020 (đạt hơn 16,5 GW điện mặt trời chỉ trong 3 năm) cho thấy dư địa và năng lực hấp thụ công nghệ mới rất lớn nếu được hỗ trợ về chính sách, tài chính và hạ tầng phù hợp.
Tuy nhiên, chuyển hóa tiềm năng thành hiện thực vẫn là thách thức do thiếu cơ chế khuyến khích dài hạn, thiếu quy hoạch tích hợp đất - điện - lưới và hạ tầng chưa theo kịp tốc độ phát triển.
Thực trạng chuyển dịch năng lượng hiện nay ở Việt Nam
Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước chuyển quan trọng trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo. Giai đoạn 2018-2020 chứng kiến sự bùng nổ của điện mặt trời, với hơn 16,5 GW được đưa vào vận hành, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng đầu ASEAN về công suất điện mặt trời (vượt qua cả Thái Lan). Điện gió cũng đạt khoảng 4,3 GW vào cuối năm 2023, trong đó phần lớn được phát triển tại Ninh Thuận, Bình Thuận và các tỉnh Tây Nguyên.
Tuy nhiên, từ năm 2021 trở đi, xu thế phát triển này chững lại do cơ chế giá FIT kết thúc và chưa có cơ chế thay thế phù hợp. Hơn 4.000 MW điện mặt trời và điện gió đã xây dựng xong nhưng chưa được ký hợp đồng mua bán điện (PPA) hoặc bị cắt giảm công suất thường xuyên do không giải tỏa được lưới. Việc chưa có chính sách giá điện chuyển tiếp cũng khiến hàng chục GW dự án đang "xếp hàng" chờ phê duyệt, gây lãng phí lớn về nguồn lực xã hội.Mặt khác, cơ cấu năng lượng vẫn phụ thuộc chủ yếu vào than đá, chiếm khoảng 45% sản lượng điện (2023). Điều này gây áp lực lớn lên mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và chuyển dịch xanh. Các nguồn điện nền sạch như điện khí LNG, thủy điện tích năng, hoặc điện sinh khối mới đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, chưa đủ quy mô để thay thế các nguồn truyền thống.
Bên cạnh đó, các mô hình sử dụng năng lượng hiệu quả, phản ứng phụ tải, số hóa hệ thống điện, điện áp mái công nghiệp vẫn còn ở giai đoạn thí điểm, thiếu khung pháp lý rõ ràng. Thị trường điện cạnh tranh bán lẻ chưa hình thành, cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) chưa được triển khai đại trà, dẫn đến sự thiếu linh hoạt trong điều phối nguồn điện sạch đến các doanh nghiệp có nhu cầu.
Những khó khăn trong chuyển đổi sang năng lượng xanh
Về chính sách và thể chế: Một trong những rào cản lớn nhất trong quá trình chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam là sự thiếu hoàn thiện và thiếu ổn định của khung chính sách. Đến nay, dù đã ban hành Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và các cam kết quốc tế về phát thải ròng bằng 0, nhưng vẫn chưa có một cơ sở luật về năng lượng tái tạo (Luật NLTT) hoặc luật chuyển đổi năng lượng. Điều này dẫn đến tình trạng các chính sách rời rạc, thiếu tính ràng buộc pháp lý cao, khó triển khai nhất quán giữa trung ương và địa phương.
Cơ chế giá điện sau FIT chưa được ban hành kịp thời, khiến các nhà đầu tư mất niềm tin và đình hoãn nhiều dự án. Việc chuyển từ cơ chế FIT sang đấu thầu hoặc PPA theo giá trần chưa rõ ràng về phương pháp xác định giá, cơ chế chia sẻ rủi ro và lộ trình áp dụng. Đồng thời, các hợp đồng PPA hiện tại chưa có tính ràng buộc cao về pháp lý, thiếu cơ chế bảo lãnh thanh toán hoặc chia sẻ rủi ro hạ tầng - chính sách - pháp lý, khiến các tổ chức tài chính quốc tế khó tham gia đầu tư dài hạn.
Bên cạnh đó, sự chồng chéo giữa Luật Điện lực, Luật Đầu tư, Luật Đất đai và Luật Bảo vệ môi trường đang gây ra nhiều bất cập trong quá trình cấp phép đầu tư. Ví dụ, một dự án NLTT quy mô trên 10 ha phải mất 12-18 tháng để tích hợp vào quy hoạch sử dụng đất, thẩm định môi trường, và phê duyệt chủ trương đầu tư. Việc thiếu một cơ chế liên thông giữa các bộ ngành cũng khiến tiến độ giải ngân và triển khai dự án bị kéo dài, làm tăng chi phí xã hội và giảm hiệu quả chuyển đổi năng lượng.
Về hạ tầng kỹ thuật: Sự phát triển mạnh mẽ của điện mặt trời và điện gió trong giai đoạn 2018-2020 đã làm lộ rõ những bất cập trong hạ tầng điện, đặc biệt là hệ thống điện nền và tích trữ. Các nguồn NLTT có đặc điểm phát điện không ổn định, phụ thuộc vào thời tiết và thời gian trong ngày. Trong khi đó, hệ thống điện Việt Nam vẫn dựa chủ yếu vào mô hình truyền thống, thiếu linh hoạt, thiếu khả năng điều tiết nhanh và không có bộ đệm tích trữ năng lượng quy mô lớn.
Điện nền đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định tần số và vận hành hệ thống điện quốc gia. Tuy nhiên, các nguồn điện nền sạch như điện khí LNG, thủy điện tích năng hiện vẫn còn rất hạn chế. Việt Nam chưa có nhà máy thủy điện tích năng nào hoạt động, trong khi theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, cần phát triển ít nhất 2.400-6.000 MW thủy điện tích năng và 10.000-16.300 MW hệ thống lưu trữ điện (BESS) vào năm 2030 để hỗ trợ vận hành hệ thống khi NLTT chiếm tỉ trọng cao.
Việc thiếu quy định bắt buộc tích hợp BESS đối với các dự án NLTT ≥50 MW, thiếu thị trường phụ trợ và cơ chế thanh toán lưu trữ, khiến các nhà đầu tư không mặn mà đầu tư vào lưu trữ, dù công nghệ và tài chính đã sẵn có. Đồng thời, lưới truyền tải hiện nay - đặc biệt là các tuyến 220kV và 500kV - không theo kịp tốc độ phát triển nguồn, dẫn đến hiện tượng quá tải, cắt giảm công suất điện mặt trời và điện gió thường xuyên tại Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai và Tây Nguyên.
Về kỹ thuật và công nghệ: Một trong những thách thức quan trọng nhưng thường bị đánh giá chưa đúng mức trong quá trình chuyển đổi năng lượng là hạn chế về kỹ thuật và công nghệ. Hệ thống năng lượng Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu vận hành theo mô hình truyền thống, chưa được thiết kế để tích hợp tỉ trọng cao các nguồn điện biến động như điện mặt trời và điện gió. Điều này dẫn đến những khó khăn trong điều độ, duy trì tần số và ổn định điện áp khi nguồn NLTT phát điện không đồng bộ với phụ tải.
Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa phát triển đầy đủ hệ sinh thái các công nghệ hỗ trợ như pin lưu trữ nội địa, inverter thông minh, công nghệ điều tần cho hệ thống hybrid (kết hợp NLTT - BESS - diesel/gas). Khả năng nội địa hóa thiết bị còn thấp; phần lớn thiết bị NLTT (panel, turbine, inverter, pin lưu trữ…) vẫn phải nhập khẩu, dẫn đến phụ thuộc vào biến động thị trường toàn cầu và tỉ giá.
Việc thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia riêng cho tích hợp NLTT, lưu trữ, và vận hành linh hoạt cũng làm giảm tính nhất quán trong thiết kế và đấu nối các dự án mới. Các nhà đầu tư hiện vẫn thiếu hướng dẫn rõ ràng về yêu cầu kỹ thuật tối thiểu để tham gia thị trường phụ trợ, điều tần, hoặc hòa lưới tự động - gây cản trở quá trình chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa hệ thống năng lượng.
Khó khăn về nguồn vốn và cơ chế tài chính xanh: Chuyển đổi năng lượng là một quá trình tiêu tốn nguồn lực tài chính rất lớn. Theo tính toán của Bộ Công Thương và các đối tác phát triển, để đạt được các mục tiêu trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, Việt Nam cần đầu tư khoảng 135-150 tỉ USD trong giai đoạn 2021-2030, tương đương gần 15 tỉ USD/năm. Trong khi đó, ngân sách Nhà nước chỉ có thể đảm đương một phần rất nhỏ, phần lớn còn lại phải đến từ khu vực tư nhân và các nguồn vốn quốc tế như JETP, GCF, ADB…
Tuy nhiên, việc huy động vốn cho các dự án năng lượng xanh tại Việt Nam hiện đang gặp nhiều rào cản. Các ngân hàng trong nước vẫn còn e ngại cho vay các dự án NLTT do rủi ro pháp lý (thiếu PPA dài hạn có bảo lãnh), rủi ro thị trường (chưa có giá điện ổn định) và rủi ro kỹ thuật (không đảm bảo giải tỏa công suất). Việc thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro công - tư, bảo lãnh hợp đồng từ các định chế tài chính như Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) cũng khiến dòng vốn xanh chưa thể tiếp cận đại trà. Mặt khác, Việt Nam chưa có một cơ chế tín dụng xanh được chuẩn hóa và triển khai rộng rãi. Việc phát hành trái phiếu xanh còn mang tính thử nghiệm, chưa có khung phân loại (taxonomy) thống nhất về hoạt động xanh - sạch - bền vững.
Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân trong nước - nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ - vẫn khó tiếp cận vốn vay trung dài hạn do thiếu tài sản đảm bảo, thiếu năng lực lập dự án theo chuẩn quốc tế (IFC, ADB), và chưa quen với quy trình quản trị rủi ro tài chính - môi trường - xã hội (ESG). Điều này gây ra sự chênh lệch lớn giữa tiềm năng phát triển NLTT và năng lực tài chính thực tế của nền kinh tế.
Giải pháp cho chuyển đổi năng lượng xanh ở Việt Nam
Hoàn thiện khung pháp lý và thể chế điều phối liên ngành: Một trong những điều kiện tiên quyết để triển khai hiệu quả Quy hoạch điện VIII điều chỉnh là xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế mang tính đồng bộ, rõ ràng, ổn định và đủ linh hoạt để thích ứng với xu thế công nghệ và thị trường. Hiện tại, Việt Nam đang thiếu một khung pháp lý toàn diện về chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là Luật Năng lượng tái tạo hoặc Luật chuyển đổi năng lượng.
Cần khẩn trương ban hành Luật Năng lượng tái tạo, trong đó quy định cụ thể về: phạm vi điều chỉnh các loại hình NLTT; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; cơ chế cấp phép, đấu nối, lưu trữ; hợp đồng PPA mẫu có ràng buộc pháp lý; cơ chế thanh toán dịch vụ phụ trợ và chia sẻ rủi ro. Luật cần được thiết kế phù hợp với xu hướng quốc tế, có tham vấn cộng đồng doanh nghiệp và tổ chức tài chính lớn để đảm bảo tính khả thi và hấp dẫn đầu tư.
Xem xét thành lập một Ban chỉ đạo quốc gia về chuyển đổi năng lượng và trung hòa carbon, trực thuộc Chính phủ, điều phối liên ngành giữa các Bộ và các địa phương. Ban này không chỉ giám sát thực hiện Quy hoạch điện VIII mà còn điều phối các chương trình tài chính xanh, quản lý rủi ro hệ thống và cập nhật tiến độ triển khai định kỳ.
Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn như Nghị định, Thông tư liên quan đến đấu thầu dự án điện, cơ chế DPPA, định giá lưu trữ, và quy chuẩn kỹ thuật về tích hợp NLTT cũng cần được ban hành sớm. Việc trì hoãn khung pháp lý sẽ tiếp tục làm “treo” hàng chục GW công suất dự án, làm chậm tiến độ thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ (KHCN) là yếu tố nền tảng, xuyên suốt toàn bộ chuỗi giá trị năng lượng xanh - từ sản xuất đến lưu trữ, truyền tải và tiêu dùng thông minh. Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn chủ yếu nhập khẩu công nghệ, chưa có hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nội địa đủ mạnh. Để đảm bảo tính tự chủ và bền vững, cần có chiến lược đầu tư mạnh vào R&D, hợp tác quốc tế, thương mại hóa công nghệ và xây dựng hạ tầng thử nghiệm tiêu chuẩn. Cụ thể, cần đầu tư nghiên cứu và làm chủ các công nghệ:
+ Vật liệu năng lượng mới (PV, pin lưu trữ, vật liệu nhiệt - điện);
+ Công nghệ lưới thông minh, truyền tải siêu cao áp, inverter thông minh;
+ Công nghệ chuyển hóa biomass, hydro xanh, lưu trữ cơ - điện - hóa học;
+ Thiết bị điện áp mái, điện hybrid tích hợp AI, blockchain, IoT.
Các doanh nghiệp cần chủ động đầu tư nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ mới, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất, truyền tải và tiêu thụ năng lượng cùng với sự hỗ trợ của nhà nước.
Phát triển đồng bộ hạ tầng nguồn - lưới - lưu trữ: Hạ tầng điện quốc gia hiện đang là nút thắt lớn trong quá trình hấp thụ và khai thác hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo. Việc phát triển không đồng bộ giữa nguồn phát (điện mặt trời, điện gió) và lưới truyền tải đã dẫn đến tình trạng cắt giảm công suất lên tới 30-40% tại nhiều khu vực như Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Đắk Lắk. Ngoài ra, sự thiếu vắng các hệ thống lưu trữ năng lượng (BESS, thủy điện tích năng) cũng khiến hệ thống không đủ khả năng vận hành ổn định khi NLTT chiếm tỉ trọng cao. Để khắc phục, cần ban hành cơ chế bắt buộc tích hợp hệ thống lưu trữ năng lượng đối với các dự án NLTT ≥50 MW. Dung lượng lưu trữ tối thiểu nên đạt đến 2 giờ công suất danh định. BESS nên được xem là hạ tầng đồng bộ, được đưa vào hồ sơ thẩm định đầu tư, được khấu trừ chi phí trong đấu thầu và hưởng ưu đãi tín dụng xanh.
Về điện nền, cần ưu tiên triển khai các tổ hợp điện khí LNG quy mô lớn gần phụ tải (Nhơn Trạch, Long An, Hải Phòng…), nhằm thay thế dần các tổ máy nhiệt điện than cũ. Đồng thời, cần đưa 3-5 dự án thủy điện tích năng chiến lược (Bắc Hà, Núi Cốc, Phù Yên…) vào danh mục đầu tư ưu tiên đầu từ ngay, với nguồn vốn ODA, JETP hoặc trái phiếu xanh.
Về truyền tải, nên mở rộng hình thức đầu tư ngoài nhà nước theo mô hình PPP hoặc BOO. Các doanh nghiệp có thể được phép xây dựng trạm biến áp và đường dây đấu nối riêng trong các cụm năng lượng tái tạo - công nghiệp. Quy trình phê duyệt các tuyến truyền tải ≥110kV cần được rút gọn, đồng thời áp dụng công nghệ số, SCADA, thiết bị tự động hóa và phân vùng điều độ để nâng cao năng lực lưới.
Hoàn thiện cơ chế thị trường điện cạnh tranh và chính sách giá điện: Một trong những điều kiện cần thiết để thúc đẩy chuyển đổi năng lượng thành công là hình thành thị trường điện cạnh tranh thực chất và xây dựng chính sách giá điện linh hoạt, phản ánh đúng chi phí, tín hiệu thị trường và khả năng chi trả của nền kinh tế. Hiện nay, thị trường điện Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào mô hình một người mua duy nhất (EVN), chưa phát triển đầy đủ thị trường điện bán buôn, thị trường bán lẻ cạnh tranh, cũng như chưa có thị trường phụ trợ thực sự.
Để giải phóng tiềm năng của năng lượng tái tạo, cần khẩn trương ban hành cơ chế giá điện chuyển tiếp, với khung giá trần - sàn linh hoạt theo vùng, loại hình công nghệ và thời điểm phát điện. Cơ chế này nên tính đến chi phí thực tế (LCOE), giá trị hệ thống và tránh tạo ra sự méo mó cạnh tranh giữa các dự án đầu tư sớm - muộn. Đối với các nguồn NLTT biến đổi, giá điện có thể được điều chỉnh theo thời gian (time-of-use pricing), để khuyến khích đầu tư vào hệ thống lưu trữ, phụ tải linh hoạt và điều độ tối ưu.
Bên cạnh đó, cần xây dựng thị trường điện phụ trợ bao gồm: dịch vụ điều tần, điều áp, khởi động đen (black start), dự phòng nhanh, cân bằng tần số... Các nhà máy thủy điện tích năng và BESS nên được phép tham gia thị trường này, nhận thanh toán theo giá thị trường hoặc hợp đồng dịch vụ phụ trợ định kỳ. Việc ban hành Thông tư hướng dẫn cụ thể về thị trường phụ trợ là một trong các nhiệm vụ ưu tiên giai đoạn 2025-2026.
Cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) giữa nhà đầu tư NLTT và khách hàng lớn (FDI, KCN, tập đoàn đa quốc gia) cũng cần được triển khai rộng rãi trên toàn quốc. Điều này sẽ thúc đẩy tiêu thụ điện xanh, giảm gánh nặng điều độ cho EVN và hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện cam kết ESG, trung hòa carbon trong chuỗi cung ứng.
Huy động tài chính xanh và cơ chế chia sẻ rủi ro: Nguồn vốn là yếu tố then chốt để thực hiện thành công quá trình chuyển đổi năng lượng. Trong khi nhu cầu đầu tư điện lực giai đoạn 2021-2030 của Việt Nam ước tính lên tới 135-150 tỉ USD, thì ngân sách Nhà nước chỉ có thể tài trợ khoảng 15-20%, phần còn lại cần đến từ khu vực tư nhân và vốn quốc tế. Tuy nhiên, hệ sinh thái tài chính xanh tại Việt Nam hiện chưa phát triển tương xứng, làm hạn chế khả năng huy động vốn.
Trước tiên, cần thiết lập khung pháp lý cho tài chính xanh, bao gồm: hệ thống phân loại xanh (green taxonomy), tiêu chí thẩm định dự án NLTT, cơ chế chứng nhận tín dụng xanh và khuyến khích phát hành trái phiếu xanh.
Thứ hai, Nhà nước cần thiết kế các công cụ chia sẻ rủi ro công - tư, như bảo lãnh hợp đồng PPA, bảo lãnh ngoại tệ, bảo lãnh rủi ro chính sách (thay đổi luật, trì hoãn cấp phép, cắt giảm công suất...).
Thứ ba, cần cụ thể hóa cơ chế tiếp nhận và giải ngân nguồn tài trợ quốc tế, như JETP (15,5 tỉ USD), GCF, Climate Investment Funds…
Bên cạnh đó, nên khuyến khích thành lập các quỹ tín dụng xanh cấp vùng, huy động vốn từ nhà đầu tư cá nhân, tổ chức tài chính địa phương, và doanh nghiệp phát thải lớn cần bù trừ carbon.
Ngoài ra, hệ thống ngân hàng thương mại cần được hỗ trợ nâng cao năng lực đánh giá rủi ro môi trường - xã hội - công nghệ (ESG) để mở rộng cho vay trung dài hạn vào NLTT. Cần xem xét ưu đãi lãi suất, giãn nợ, bảo hiểm đầu tư cho các dự án NLTT có hiệu quả cao về giảm phát thải và tạo việc làm xanh.
Tăng cường năng lực thực thi và giám sát ở cấp địa phương: Một trong những yếu tố quyết định thành công của Quy hoạch điện VIII điều chỉnh là khả năng thực thi đồng bộ giữa trung ương và địa phương. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy năng lực của các tỉnh, đặc biệt là cấp sở, ban ngành liên quan còn hạn chế về chuyên môn, thiếu am hiểu về quy hoạch năng lượng, kỹ thuật NLTT và chính sách tài chính xanh.
Do đó, cần triển khai chương trình đào tạo chuyên sâu cho cán bộ cấp tỉnh về tích hợp quy hoạch điện - đất đai - hạ tầng - môi trường. Cũng như xây dựng cẩm nang hướng dẫn thực thi Quy hoạch điện VIII điều chỉnh tại cấp tỉnh, trong đó nêu rõ: quy trình đề xuất cụm NLTT, cơ chế ưu tiên dự án kết hợp BESS - phụ tải công nghiệp, cách thức bố trí quỹ đất và đấu nối lưới điện. Ngoài ra, cần xem xét xây dựng bộ chỉ số năng lượng tái tạo cấp tỉnh (Provincial Renewable Energy Index), bao gồm các tiêu chí: tỉ lệ NLTT trong sản lượng tiêu thụ, tỉ lệ điện mặt trời áp mái, mức độ phát triển BESS, tỉ lệ đầu tư tư nhân vào lưới điện…
Xem xét thành lập Văn phòng chuyển đổi năng lượng tại mỗi tỉnh/khu vực, tương tự mô hình các Văn phòng JETP tại Trung ương, sẽ giúp nâng cao tính chủ động, giảm phụ thuộc vào hướng dẫn từ trung ương, đồng thời là đầu mối tiếp nhận vốn tài trợ và phối hợp dự án giữa doanh nghiệp - nhà nước - quốc tế tại địa phương.
Tóm lại, chuyển đổi năng lượng là một trong những nhiệm vụ chiến lược, mang tính xuyên suốt và có ảnh hưởng sâu rộng đến cấu trúc kinh tế - xã hội, an ninh năng lượng và cam kết môi trường của Việt Nam. Có thể khẳng định rằng Việt Nam đang sở hữu một nền tảng tiềm năng năng lượng tái tạo vượt trội trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là về điện mặt trời và điện gió ngoài khơi. Tuy nhiên, tiềm năng đó đang bị cản trở nghiêm trọng bởi nhiều rào cản mang tính hệ thống.
Chuyển đổi sang năng lượng xanh không chỉ là yêu cầu bắt buộc từ các cam kết quốc tế, mà còn là cơ hội chiến lược để Việt Nam phát triển một nền kinh tế carbon thấp, hiện đại và có khả năng cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc ban hành Quy hoạch điện VIII điều chỉnh là bước đi đúng đắn và kịp thời, nhưng chỉ là bước khởi đầu.
Muốn biến lộ trình quy hoạch thành hiện thực, Việt Nam cần đột phá trong cải cách thể chế, làm chủ công nghệ, huy động hiệu quả nguồn lực tài chính và phát triển hạ tầng điện theo tư duy tích hợp - đồng bộ - linh hoạt. Việc sớm xây dựng các cơ chế chính sách minh bạch, nhất quán, có khả năng thu hút đầu tư tư nhân và quốc tế sẽ quyết định khả năng thành công của chiến lược chuyển đổi năng lượng quốc gia. Đồng thời, cần nâng cao năng lực giám sát, điều hành thực hiện quy hoạch ở cả cấp Trung ương và địa phương, đảm bảo “hành lang thể chế xanh” có thể dẫn dắt quá trình chuyển đổi trên thực tế. Chỉ khi toàn bộ hệ sinh thái năng lượng - công nghệ - tài chính - hành chính cùng chuyển động đồng bộ, Việt Nam mới có thể hoàn thành các mục tiêu trung hòa carbon, đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển kinh tế bền vững trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
14h20: Ông Nguyễn Mạnh Cường, Phòng Kế hoạch và Quy hoạch - Cục Điện lực, Bộ Công Thương trình bày tham luận "Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, đáp ứng tăng trưởng kinh tế hai con số".
Trong thời gian qua đã xuất hiện nhiều yếu tố mới ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ điện và định hướng phát triển nguồn điện, như: Tiếp tục thực hiện chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận; mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2030 cao hơn rất nhiều so với trước (năm 2025 phấn đấu đạt trên 8% và giai đoạn 2026-2030 phấn đấu đạt mức hai con số); tình hình địa chính trị quốc tế còn tiếp tục diễn biến phức tạp; sự phát triển nhanh về khoa học công nghệ… Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công Thương thực hiện điều chỉnh Quy hoạch điện VIII để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức 2 con số trong giai đoạn tới.
Để đảm bảo cung ứng điện các năm tới với mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức hai con số, việc rà soát, đánh giá khả năng phát triển các loại hình nguồn điện, điều chỉnh cơ cấu nguồn điện đặc biệt giai đoạn đến năm 2030, trong đó ưu tiên phát triển nguồn điện có thời gian thực hiện nhanh để kịp thời đáp ứng nhu cầu phụ tải, đặc biệt tại khu vực phía Bắc là cần thiết. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Công Thương tổ chức lập Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII tại Quyết định số 1710/QĐ-TTg ngày 31.12.2024.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai xây dựng đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII theo đúng quy định của pháp luật về điện lực và quy hoạch, trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15.4.2025. Trong đó, đã tính toán xác định cơ cấu nguồn điện đảm bảo các yêu cầu giải quyết được 3 mục tiêu: (i) Đáp ứng nhu cầu trong nước, (ii) Phục vụ cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), (iii) Phục vụ phát triển để xuất khẩu theo hợp đồng.
Kết quả tính toán dự báo phụ tải điện được thực hiện với 3 phương án tương ứng với 3 kịch bản tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm ở phương án phụ tải cơ sở giai đoạn 2026-2030 là 10,3%/năm (tương ứng với mức tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam khoảng 8,0%/năm trong giai đoạn này) và phương án phụ tải cao 12,5%/năm (tương ứng với tăng trưởng GDP bình quân 10,0%/năm) đảm bảo đủ điện cho phát triển kinh tế -xã hội của nước ta.
Chương trình phát triển điện lực tại Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII bảo đảm phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới, đáp ứng nhu cầu điện trong nước, sẵn sàng xuất khẩu và hướng tới mục tiêu trung hòa các bon vào năm 2050. Như vậy, các nguồn lực trong nước sẽ được phát huy tối đa tiềm năng, hạn chế đáng kể sự phụ thuộc vào nước ngoài, nhằm mục tiêu khai thác tối đa các nguồn năng lượng tái tạo tại các khu vực có nhiều tiềm năng, phù hợp với đặc điểm vận hành hệ thống điện, tình hình phát triển phụ tải, bảo đảm cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội ở mức 2 con số và có độ dự phòng để phát triển các trung tâm dữ liệu ngành, dữ liệu quốc gia trong tương lai.
Theo tính toán trong Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, đến năm 2030 tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước (không bao gồm xuất khẩu) đạt 183.291-236.363 MW (cao gấp 2,5-3 lần so với quy mô nguồn điện hiện nay, tăng thêm 27.747-80.819 MW so với Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt), trong đó: (i) Các nguồn điện nền (tổng công suất 97.734-103.176 MW): Nhiệt điện than 31.055 MW (chiếm tỉ lệ 13,1-16,9%); Nhiệt điện khí trong nước 10.861-14.930 MW (chiếm tỉ lệ 5,9-6,3%); Nhiệt điện LNG 22.524 MW (chiếm tỉ lệ 9,5-12,3%); Thủy điện 33.294-34.667 MW (chiếm tỉ lệ 14,7-18,2%); (ii) Nguồn điện năng lượng tái tạo, chủ yếu là điện gió và điện mặt trời (tổng công suất 78.525-117.445 MW): Điện gió trên bờ và gần bờ 26.066-38.029 MW (chiếm tỉ lệ 14,2-16,1%); Điện gió ngoài khơi 6.000 MW (chiếm tỉ lệ 2,5-3,2%); Điện mặt trời tang trưởng rất mạnh (gồm điện mặt trời tập trung và điện mặt trời mái nhà) có công suất khoảng 46.459-73.416 MW (chiếm tỉ lệ 25,3-31,1%).
Ông Nguyễn Mạnh Cường, Phòng Kế hoạch và Quy hoạch - Cục Điện lực, Bộ Công Thương. Ảnh: Hải Nguyễn
Để bảo đảm tiến độ các dự án điện đưa vào vận hành theo quy hoạch được duyệt, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và triển khai hiệu quả các mục tiêu đã đề ra, Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII cũng đã đề xuất một số giải pháp, gồm:
(1) Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách để tạo hành lang thông thoáng trong việc triển khai và thực hiện các dự án điện.
(2) Thường xuyên đôn đốc các địa phương hỗ trợ, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư triển khai dự án trên địa bàn, bảo đảm tiến độ đề ra.
(3) Giải pháp tạo nguồn vốn và huy động vốn đầu tư phát triển ngành điện, đặc biệt là đa dạng hóa các nguồn vốn, các hình thức huy động vốn (vốn tín dụng ngân hàng, vốn viện trợ, thị trường chứng khoán...), thu hút có hiệu quả các nguồn vốn trong và ngoài nước; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành điện.
(4) Đề xuất các cơ quan chức năng quyết liệt tháo gỡ vướng mắc do kết luận thanh tra, nhằm sớm đưa các dự án điện vào vận hành, đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nhu cầu sinh hoạt của Nhân dân.
(5) Các Tập đoàn, Tổng Công ty đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thành các công trình nguồn điện được giao và lưới điện truyền tải (nhất là truyền tải liên miền và khu vực).
(6) Chủ đầu tư các nhà máy điện tăng cường công tác theo dõi, giám sát chặt chẽ tình trạng vận hành thiết bị của nhà máy; chủ động phối hợp hiệu quả với các đơn vị cung cấp nhiên liệu sơ cấp (than, khí - bao gồm cả nguồn khí LNG, dầu) để xây dựng và triển khai kế hoạch thu xếp nguồn cung nhiên liệu ổn định, liên tục trong suốt quá trình vận hành nhà máy; tuân thủ tuyệt đối lệnh điều độ của cơ quan điều độ đáp ứng nhu cầu hệ thống điện.
Việc phê duyệt Quy hoạch điện VIII bước đầu đảm bảo cung ứng điện để đạt được mục tiêu cung ứng điện cho phát triển kinh tế xã hội, và mục tiêu chuyển dịch năng lượng theo cam kết của Việt Nam.
Bên cạnh vai trò dẫn dắt của Nhà nước, cần sự chung tay của các nhà đầu tư, các nhà khoa học, sự hỗ trợ của các cơ quan thông tấn, báo chí… để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước.
14h10: Ông Đoàn Ngọc Dương - Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) phát biểu: "Chuyển đổi năng lượng theo hướng giảm dần tỉ trọng nguồn nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất điện sang năng lượng tái tạo (NLTT), năng lượng mới là xu thế tất yếu hiện nay trên thế giới. Việt Nam đã và đang nỗ lực thực hiện chuyển đổi năng lượng xanh nhằm hiện thực hóa mục tiêu hướng tới mục tiêu trung hòa các-bon (hay Net Zero) vào năm 2050 thông qua việc ban hành khung chính sách, các chiến lược, quy hoạch như Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 11/2/2020 về Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045; Quyết định số 893/QĐ-TTg ngày 26/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Ông Đoàn Ngọc Dương - Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương). Ảnh: Hải Nguyễn
Nghị quyết số 55-NQ/TW đã đặt ra mục tiêu tỉ lệ các nguồn NLTT trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 - 20% vào năm 2030; 25 - 30% vào năm 2045. Triển khai mục tiêu đã đề ra, theo Quyết định số 768/QĐ-TTg, tổng công suất đặt nguồn điện đến năm 2030 đạt khoảng 183.000 - 236.000 MW; đến năm 2050 đạt khoảng 774.000 - 839.000 MW. Trong đó, công suất đặt các nguồn điện NLTT (không bao gồm thuỷ điện) chiếm 28 - 36% vào năm 2030 và đạt 74 - 75% tổng công suất hệ thống vào năm 2050. Tính đến thời điểm tháng 12.2024, tổng công suất đặt nguồn NLTT, năng lượng sạch của Việt Nam đạt 29.180 MW chiếm khoảng 33,6 % tổng công suất đặt toàn hệ thống.
Để đạt tăng trưởng nguồn điện NLTT theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và hướng tới Net Zero vào năm 2050, trong thời gian tới, cần xem xét, triển khai một số nhóm giải pháp như sau:
Thứ nhất, tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, xóa bỏ các rào cản về thủ tục đầu tư phát triển điện lực. Luật Điện lực số 61/2024/QH15 có hiệu lực từ ngày 01/02/2025 và các văn bản dưới Luật về cơ bản đã giải quyết những nút thắt liên quan tới thủ tục đầu tư các dự án điện, công khai quy hoạch, danh mục dự án đầu tư, đưa ra các cơ chế khuyến khích cho các dự án NLTT, năng lượng sạch đặc biệt là các mô hình điện mặt trời áp mái, điện gió ngoài khơi, lưu trữ năng lượng và hydrogen xanh. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý một cách đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả; hoàn thiện chính sách khuyến khích sản xuất, sử dụng NLTT, năng lượng mới để thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển các dự án điện lực.
Thứ hai, không thể có chuyển đổi năng lượng nếu thiếu một hệ thống lưới điện thông minh và linh hoạt. Theo Quyết định số 768/QĐ-TTg, nhu cầu vốn đầu tư cho lưới điện truyền tải giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 18,1 tỉ USD đã tính toán lưới điện giải tỏa công suất, kết nối các khu vực, vùng miền với công nghệ hiện đại… Trong thời gian tới, chúng ta cần đẩy nhanh đầu tư các đường dây truyền tải chiến lược, hiện đại hóa lưới điện với công nghệ số, thông minh nhằm khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn điện NLTT, năng lượng mới trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, cần thực hiện chuyển đổi năng lượng trong chính các ngành tiêu thụ điện lớn. Ngành công nghiệp cần thúc đẩy sản xuất xanh như thép xanh, xi măng xanh, sử dụng năng lượng sạch trong khu công nghiệp. Giao thông cần điện khí hóa mạnh mẽ, phát triển xe điện và hạ tầng trạm xạc. Song song với đó là đẩy mạnh tuyên truyền thực hiện các quy định, giải pháp về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Thứ tư, chúng ta cần xem xét vai trò của điện hạt nhân trong dài hạn. Đây là nguồn điện ổn định, không phát thải CO2, có thể đóng vai trò là nguồn nền cho hệ thống điện với tỷ lệ nguồn NLTT lớn. Theo Quyết định số 768/QĐ-TTg, để tăng cường an ninh năng lượng, đến năm 2030 - 2035 điện hạt nhân đạt khoảng 4.000 - 6.400 MW và đạt khoảng 10.500 - 14.000 MW vào năm 2050. Hiện Việt Nam đã tiếp tục thực hiện chủ trương đầu tư các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1,2 trên cơ sở nghiên cứu, hợp tác với các đối tác sở hữu công nghệ hiện đại, an toàn, tin cậy trên thế giới.
Thứ năm, cần một hệ thống cơ chế chính sách và thị trường điện hiện đại. Chúng ta cần khẩn trương hoàn thiện thị trường điện cạnh tranh, xây dựng cơ chế tín chỉ carbon, định giá phát thải, thúc đẩy tài chính xanh và các hình thức hợp tác công tư. Đây là nền tảng để huy động nguồn lực tư nhân và quốc tế cho chuyển đổi năng lượng. Đồng thời cũng không thể thiếu vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Chúng ta cần đầu tư vào các công nghệ như lưu trữ năng lượng, AI trong điều hành hệ thống điện, các vật liệu mới và đặc biệt là công nghệ sản xuất hydrogen xanh. Đồng thời đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình chuyển đổi.
Cuối cùng, quan trọng nhất là đảm bảo công bằng trong chuyển đổi. Mỗi chính sách cần đặt con người làm trung tâm: từ người lao động ngành than, các lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng truyền thống, các cộng đồng dễ bị tổn thương đến các doanh nghiệp nhỏ, tất cả phải được hỗ trợ, đào tạo và đào tạo lại, chuyển đổi sinh kế, để không ai bị bỏ lại phía sau trên hành trình hướng tới Net Zero.
Chuyển đổi năng lượng xanh là hành trình nhiều thách thức, nhưng với tầm nhìn, sự quyết tâm và chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và cộng đồng quốc tế, tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện thành công tiến trình này, bảo đảm an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế đạt mục tiêu 8% trong năm 2025 và 2 con số trong giai đoạn 2026-2030, đồng thời đạt mục tiêu Net Zero một cách bền vững và chủ động".
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: Hải Nguyễn
14h04: Ông Nguyễn Đức Thành - Phó Tổng Biên tập Báo Lao Động - phát biểu đề dẫn: "Xu hướng chuyển dịch từ năng lượng hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo đang là cuộc chạy đua quyết liệt giữa các nước nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai.
Nhận thấy tầm quan trọng hàng đầu của năng lượng tái tạo, xuyên suốt thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã có hàng loạt chính sách thể hiện sự quan tâm tới chuyển dịch năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo. Các chính sách này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho kế hoạch thực hiện xanh hóa, chuyển dịch sang sử dụng năng lượng xanh của doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Đức Thành - Phó Tổng Biên tập Báo Lao Động. Ảnh: Hải Nguyễn
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, trở ngại. Nhiều dự án bị tạm dừng, chậm tiến độ đưa vào khai thác sử dụng do thủ tục hành chính phức tạp, thiếu nguồn vốn, công nghệ chưa đủ và quyền lợi của nhà đầu tư chưa rõ ràng.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 2 con số trong giai đoạn tới kéo nhu cầu điện năng tăng cao. Nếu không có giải pháp kịp thời phát triển nguồn điện, đặc biệt là điện sạch và bền vững, nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn 2026 - 2028 hoàn toàn có thể xảy ra. Thực tế này đòi hỏi việc gỡ khó cho các dự án năng lượng tái tạo cần được đẩy nhanh hơn nữa; các cơ chế, chính sách để phát triển dự án điện cũng phải rõ ràng và triển khai sớm. Chỉ có như vậy, mới khuyến khích nhà đầu tư tư nhân tham gia cùng các doanh nghiệp nhà nước. Từ đó, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, không gây gián đoạn cho sự tăng trưởng kinh tế và đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp, nhà đầu tư, cộng đồng và các tổ chức liên quan.
Hội thảo “Giải pháp chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero” chính là diễn đàn quy tụ các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và các bên liên quan để cùng nhau phân tích, đánh giá và đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng theo hướng bền vững, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế carbon thấp mà Việt Nam đã cam kết trên trường quốc tế.
Hội thảo nằm trong khuôn khổ chuỗi sự kiện thường niên “Ngày chuyển đổi xanh 2025” do Báo Lao Động tổ chức nhằm tháo gỡ những rào cản, tìm ra giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh tại Việt Nam".
Năm 2025, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8%, tạo đà cho tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2031. Theo Bộ Công Thương, nhu cầu điện sẽ tăng hơn 12% trong năm nay, tạo áp lực lớn lên hệ thống điện quốc gia. Để đáp ứng bền vững, Việt Nam cần nhanh chóng chuyển sang các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió và sinh khối.
Tuy nhiên, hành trình chuyển đổi năng lượng xanh còn nhiều thách thức, từ phụ thuộc vào điện than, hạn chế tài chính đến nhu cầu phát triển hạ tầng đồng bộ. Để thành công, Việt Nam cần cải cách thể chế, làm chủ công nghệ, thu hút đầu tư tư nhân và quốc tế, đồng thời nâng cao năng lực giám sát và điều hành.
Hội thảo “Giải pháp chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero” với sự tham gia của lãnh đạo Bộ Công Thương, chuyên gia năng lượng và doanh nghiệp tiên phong thực hiện chuyển đổi năng lượng.
Tại hội thảo, cơ quan quản lý, chuyên gia và doanh nghiệp sẽ thảo luận các giải pháp tài chính, công nghệ và chính sách để hiện thực hóa Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và gỡ vướng cho việc phát triển năng lượng tái tạo.
https://laodong.vn/kinh-doanh/dien-gio-ngoai-khoi-chua-co-co-che-gia-dien-khien-nha-dau-tu-gap-kho-khan-1514472.ldo
Nhóm phóng viên - BÁO LAO ĐỘNG